Tìm kiếm

Lượt truy cập

  • Tổng truy cập57,093,728

Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam

     

    Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.

    *Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...

Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.

    WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)

    Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.

    The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.

    Enjoy life, enjoy Arita experience!

Những bài báo

Những bài về Tiến sĩ Vũ Tông Phan

Nhiều tác giả

  • Thứ hai, 10:35 Ngày 17/08/2020
  • Vũ Tông Phan

    (1800 - 1851)

    Tự Hoán Phủ, hiệu Lỗ Am, Đường Xuyên, là danh sĩ, nhà giáo đời nhà Nguyễn.

    Vũ Tông Phan là học trò danh sĩ Phạm Quý Thích, là bạn Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu... tại trường Tự Tháp; tục gọi là Nghè Tự Tháp. Vũ Tông Phan nguyên quán ở làng Hoa Đường, huyện Đường An sau đổi là làng Lương Ngọc, nay thuộc xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Đỗ Tiến sĩ năm Bính Tuất 1826 thời Minh Mạng, ông làm Tham hiệp trấn Ninh Bình nhưng sau bị giáng làm Đốc học Bắc Ninh. Sau này, ông cáo quan về mở trường dạy học ở thôn Tự Tháp, phường Báo Thiên, huyện Thọ Xương (nay là quận Hoàn Kiếm, Hà Nội).

    Trường Tự Tháp còn gọi là Trường Hồ Đình hay Trường Ông nghè Tự Tháp, nằm ở phía tây Hồ Gươm do Vũ Tông Phan sáng lập, đào tạo được nhiều nhân tài như Hoàng giáp Nguyễn Tư Giản, Hoàng giáp Lê Đình Diên, Phó bảng Phạm Hy Lượng, Cử nhân Nguyễn Huy Đức, Ngô Văn Đặng.

    Tác phẩm:

    Tô Khê tùy bút tập

    Lỗ An di cảo thi tập

    Thăng Long hoài cổ

    Kiếm hồ thập vịnh

    Khoảng ba bốn trăm bài thơ, người đời sau đánh giá thơ có nhiều suy ngẫm độc đáo, triết lý, sâu sắc về thế sự; tràn ngập trong thơ là cảnh sắc thiên nhiên của đất nước; và đậm đà qua lời thơ là mối giao hòa giữa tâm hồn với tự nhiên.

    Ông là người đã góp công rất lớn cho việc chấn hưng nền văn hóa Thăng Long giữa thế kỷ XIX.

    Tên của ông được đặt tên cho một tuyến phố ở Hà Nội. Phố Vũ Tông Phan đi từ phố Khương Trung đến cầu Lủ, chạy ven bờ đông sông Tô Lịch và song song với đường Khương Đình. Tại Đà Nẵng có một con đường mang tên Vũ Tông Phan ở quận Sơn Trà, nối đường Vũ Đình Long và đường Trương Định. Tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng có một con đường mang tên ông ở quận 2.

    wikipedia

     

    Tiến sĩ Vũ Tông Phan: Người sáng lập hội hướng thiện đền Ngọc Sơn

    Là người sớm đỗ đạt khoa bảng, nhưng tiến sĩ Vũ Tông Phan (1800-1851) không chọn con đường “tiến vi quan” để thực hiện chí nguyện. Từ quan về mở trường dạy học, đào tạo ra nhiều nhân tài và xây dựng một hội hướng thiện, một chốn văn hóa giữa đất Hà Thành – chốn đế đô xưa mới là sự nghiệp lưu danh muôn thủa kẻ sĩ Bắc Hà Vũ Tông Phan.

    Tiến sĩ Vũ Tông Phan: Người sáng lập hội hướng thiện đền Ngọc Sơn

    Chân dung tiến sĩ Vũ Tông Phan do họa sĩ Bảo Nguyên phục dựng năm 2001.

    Nôi văn hóa

    NGƯT Vũ Thế Khôi – cháu 5 đời của tiến sĩ Vũ Tông Phan cho biết: Vũ Tông Phan sinh trưởng trong một gia đình nhiều đời khoa bảng. Cụ nội là Vũ Tông Dao và ông nội là Vũ Tông Uyển đều đỗ cử nhân (Hương cống). Ông chú Vũ Tông Diễm đỗ tiến sĩ. Cha là Vũ Tông Cửu đỗ Tú tài rồi ở ẩn đi dạy học. Gia đình bên ngoại của Vũ Tông Phan cũng là một gia đình sĩ phu. Mẹ Vũ Tông Phan là bà Phạm Thị Đôi là con gái cụ Hương cống Hiến phó sứ Kinh Bắc. Cậu ruột Vũ Tông Phan là tiến sĩ Phạm Quý Thích, một danh sĩ thời Lê mà các vua Nguyễn là Gia Long và Minh Mạng đều trọng dụng. Trong ba người em trai của Vũ Tông Phan thì có hai người là Vũ Như Thụy và Vũ Như Phác đều đỗ Tú tài và đều ngồi nhà dạy học ở “Mậu Hòa giảng thất” (làng Mậu Hòa nay thuộc Hoài Đức, Hà Nội).

    Người dạy chữ khai tâm cho Vũ Tông Phan là cha ông. Tuy chỉ đỗ Tú tài và ở ẩn dạy học mà được gia phong Thọ quan và khi mất còn được triều đình cử người ra viếng. Nhưng người thầy dạy dỗ và truyền thừa tư tưởng cho Vũ Tông Phan chính là cậu ruột – người thầy của nhiều kẻ sĩ Bắc Hà – Tiến sĩ Phạm Quý Thích.

    Từ quê hương Lương Đường (hay còn gọi là Hoa Đường, Lương Ngọc, nay thuộc xã Thúc Kháng huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương), gia đình họ Vũ đã về sinh cơ lập nghiệp ở thôn Tự Tháp, phía Tây hồ Gươm. Nơi đây, vào đầu thế kỷ 19 từng hội tụ những chùm sao văn nhân nổi tiếng như Phạm Quý Thích, Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án, Phạm Hội…

    Chính truyền thống gia đình, nôi văn hóa gia đình, nôi văn hóa môi trường đã hun đúc dần nên con người của Vũ Tông Phan sau đó.

    Với học vấn uyên thâm, năm Bính Tuất (1825), Vũ Tông Phan đỗ tiến sĩ. Tương truyền, đám rước vinh quy bái tổ của quan nghè Phan có đến 7 cờ biển vua ban.

    Thế nhưng, làm quan mới có 7 năm, ở vào cái tuổi 33 đương sung sức, Vũ Tông Phan đã chán cảnh quan trường, từ quan về mở trường dạy học. Con đường hoạn lộ của Tiến sĩ Vũ Tông Phan có thể nói vắn tắt như sau: Năm 1827, sau một năm thi đỗ, Vũ Tông Phan nhận chức Tri phủ Bình Hòa (Khánh Hòa), sáu tháng sau về kinh cung chức. Năm 1829, được bổ làm Lang trung Bộ Binh (chức quan tứ phẩm). Tháng 8-1829 được bổ Tham hiệp Tuyên Quang rồi Tham hiệp Thái Nguyên. Tháng 4/1830 được bổ làm Tham hiệp Lạng Sơn nhưng chưa kịp nhận chức thì bị miễn chức. Tháng 11/1831, được giao làm Giáo thụ phủ Thuận An (Bắc Ninh).

    Trong văn bia dựng tại từ đường của Vũ Tông Phan năm 1873 do học trò Hoàng giáp quyền Thượng thư bộ Lại Nguyễn Tư Giản viết, nêu rõ về việc sớm bỏ đường quan trường của thầy: “Ôi việc đời tiên sinh đủ sức cáng đáng, nhưng đành lòng lẳng lặng lui về vui với cảnh mây nước sông hồ, thả thuyền ngâm vịnh, sống đến trọn đời không thay đổi chí hướng”.

    Trường Hồ Đình

    Nối chí thầy Phạm Quý Thích, tiến sĩ - danh sĩ Bắc Hà, nhiều học trò sau khi đỗ đạt làm quan một thời gian đã xin từ quan về mở trường dạy học. Hầu hết các trường được mở ven hồ Hoàn Kiếm. Nhiều trường của bè bạn và học trò sau đều đặt tên có chữ “đình”. Trường của tiến sĩ Vũ Tông Phan lấy tên là Hồ Đình. Trường Phương Đình của Phó bảng Nguyễn Văn Siêu, trường Chí Đình của tiến sĩ Nguyễn Văn Lý, trường Dương Đình của tiến sĩ Ngô Thế Vinh, trường Liên Đình của danh sư Vũ Thạch Nguyễn Huy Đức, trường Thiện Đình của tiến sĩ Đặng Xuân Bảng…

    Quan điểm dạy học của tiến sĩ Vũ Tông Phan là đào tạo ra những kẻ sĩ giúp đời chứ không phải làm quan để vinh thân. Điều đó thể hiện trong tư tưởng “hành – tàng” của nhóm kẻ sĩ Bắc Hà. Phát huy được thì “hành” còn ngược lại thì “tàng”, lui về dạy học, đào tạo ra kẻ sĩ nối chí. Nhưng dù hành hay tàng thì vẫn tỏa rạng đi muôn phương. Có thể thấy rõ điều này qua lời văn của Vũ Tông Phan khi thác lời Văn Xương Đế quân gửi gắm trong mấy câu thơ giáng bút trên một văn bia: “Bảo kiếm tân ma bạch hiện quang; Tứ phương chiếu diệu nhậm hành tàng”. Nghĩa là: “Gươm báu mới mài ngời ánh sáng; Hành hay tàng vẫn rạng muôn phương”. Theo NGƯT Vũ Thế Khôi, ẩn ý trong câu thơ kể trên là chí khí của kẻ sĩ trong hội Hướng thiện như thanh gươm, dù đang hành động hay tàng ẩn nơi nào thì vẫn phải “mài mới” và “tỏa sáng” tức phát huy ảnh hưởng quanh mình. Quan niệm “hành – tàng” như vậy đã có bước tiến bộ so với quan điểm “xuất – xử” trước đó của nhiều nhà nho.

    Từ trường Hồ Đình, hàng trăm nhân tài đã xuất hiện. Đáng kể nhất trong số học trò là: Trưởng tràng Nguyễn Tư Giản (người xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội), đỗ Hoàng Giáp năm Giáp Thìn (1844); Hoàng giáp Lê Đình Diên; Phó bảng Phạm Hy Lượng. Và các cử nhân: Nguyễn Huy Đức, Ngô Văn Dạng…

    Sau khi tiến sĩ Vũ Tông Phan mất năm 1851, trường Hồ Đình được tôn tạo làm nhà thờ thầy. Năm 1873, tức là sau 22 năm, trưởng tràng Hoàng giáp Nguyễn Tư Giản quyền Lại bộ Thượng thư đã soạn văn bia tưởng niệm thầy. Năm 1982, tấm bia được tìm thấy tại nhà thờ họ Vũ trên địa bàn phường Trương Định, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Nguyên do tấm bia lưu lạc như sau: Trường Hồ Đình xưa, nay chính là chỗ cây đa nằm trong khuôn viên báo Nhân dân. Sau khi Pháp chiếm Hà Nội đã lấy khu đất này làm Sở bưu điện và Sở tài chính thuộc Phủ Toàn quyền Đông Dương. Một thời gian sau trở thành dinh Phó Toàn quyền cho đến năm 1918, rồi Bộ chỉ huy quân sự Pháp ở Bắc Đông Dương cho đến 1954. Sau đó là trụ sở báo Nhân dân.

    Tấm bia có tiêu đề “Lỗ Am Vũ tiên sinh từ đường ký” (Bài ký về nhà thờ cụ Vũ Lỗ Am). Tấm bia cho biết nhiều nội dung về thân thế, sự nghiệp, đức độ cũng như ruộng tế tự của tiến sĩ Vũ Tông Phan… Báo Nhân dân ra ngày 14-11-1982 có bài viết “Tấm bia đã từng soi bóng xuống Hồ Gươm” của tác giả Chí Kiên. Bài viết đề nghị dựng lại tấm bia ở dưới tán cây đa trong trụ sở báo Nhân dân. Nhưng sau đó nhiều người cho rằng dựng như thế không tiện.

    Năm 2006, ông Vũ Đình Hòe – nguyên Bộ trưởng Bộ tư pháp đầu tiên của chính phủ - cháu 4 đời tiến sĩ Vũ Tông Phan dời nhà từ số 10 Phù Đổng Thiên Vương, Hà Nội vào sống ở TP Hồ Chí Minh. Tấm bia được gỡ xuống và định chuyển vào TP. Hồ Chí Minh. Đúng lúc đó, TS. Lưu Minh Trị - Phó Ban kỷ niệm 1000 năm Thăng Long biết chuyện bèn xin gia đình tấm bia cho Hà Nội để dựng vào đền Ngọc Sơn. Nguyện vọng này được gia đình họ Vũ chấp thuận. Vì đền Ngọc Sơn gắn với tên tuổi của tiến sĩ Vũ Tông Phan và Hội hướng thiện do cụ sáng lập. Sau đó, ông Vũ Đình Hòe có gặp ông Phạm Quang Long – Giám đốc Sở VHTTDL Hà Nội và Trưởng Ban quản lý di tích và danh thắng TP Hà Nội Nguyễn Doãn Tuân.

    Công việc tưởng chừng trôi chảy nhưng không hiểu sao đến nay vẫn… tắc. NGƯT Vũ Thế Khôi cho biết: Tấm bia không được dựng trang trọng trong nhà bia như đã hứa mà bị đem nhét vào một xó chật hẹp cạnh cửa “gian cụ rùa” không ai để ý. Nguyên giám đốc Sở VHTTDL Hà Nội Phạm Quang Long cho biết: Ông coi đó là một món nợ. Nhưng ông và ông Nguyễn Doãn Tuân không được quyết những việc này.

    Sáng lập Hội hướng thiện

    Bên cạnh việc dạy học, tiến sĩ Vũ Tông Phan và nhóm bạn gồm Nguyễn Văn Siêu, Lê Duy Trung, Nguyễn Văn Lý, Ngô Thế Vinh… còn sáng lập ra Hội Hướng thiện với trụ sở ở đền Ngọc Sơn. Đích thân tiến sĩ Vũ Tông Phan soạn bài văn bia “Ngọc Sơn đến quân từ ký” năm 1843. Đền Ngọc Sơn được ông Tín Trai – người làng Nhị Khê nhường lại cho nhóm kẻ sĩ để cải tác thành một địa chỉ văn hóa. Hội Hướng thiện đã tu bổ đền Quan Đế, gỡ bỏ gác chuông, dựng đền thờ Văn Xương, tức đền Ngọc Sơn ngày nay. Việc tu sửa từ 1841 đến năm sau thì hoàn thành.

    Hội Hướng thiện mang ý nghĩa hướng về điều lành, chú trọng đến việc tu dưỡng bản thân, đồng thời giúp nhau giữa những người trong vào ngoài hội, góp phần chấn hưng phong hóa cộng đồng.

    Từ cơ sở Hội Hướng thiện sau này phát triển thành Thiện Đàn. Những nhân tài hậu sinh của tiến sĩ Vũ Tông Phan và kẻ sĩ Bắc Hà sau này trở thành những sáng lập và trụ cột của nhiều phong trào yêu nước như Đông Kinh Nghĩa Thục, mà tiêu biểu là cử nhân Lương Văn Can.

    Đền Ngọc Sơn sau khi tiến sĩ Vũ Tông Phan mất được bè bạn xây dựng thêm tháp bút và đài nghiên. Và đến ngày nay trở thành nơi hội tụ văn hóa của thủ đô, trở thành Di tích quốc gia đặc biệt.

    Từ Khôi

    10:56 31/03/2018

    daidoanket.vn/tien-si-vu-tong-phan-nguoi-sang-lap-hoi-huong-thien-den-ngoc-son-399364.html

    Tiến sĩ Vũ Tông Phan - người góp công sáng lập đền Ngọc Sơn

    Đỗ tiến sĩ khi mới 26 tuổi, bằng tài năng và nhiệt huyết, Vũ Tông Phan đã cùng các danh sĩ Nguyễn Văn Lý, Lê Duy Trung, Nguyễn Văn Siêu... chấn hưng văn hóa Thăng Long và ông cũng là người sáng lập đền Ngọc Sơn.

    Vũ Tông Phan sinh năm 1800, nguyên quán xã Hoa Đường, xưa thuộc huyện Đường An, nay là thôn Lương Ngọc, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang (Hải Dương). Tên tự của Ông là Hoán Phủ, các hiệu là Hồng Châu, Đường Xuyên, Lỗ Am, tục gọi là ông Nghè Tự Tháp. Từ đầu thế kỷ 18, do ông nội đỗ Hương cống (cử nhân) làm Thị nội văn chức trông coi việc học hành trong phủ Chúa Trịnh, nên gia đình ông đã di cư ra phường Báo Thiên, sau là thôn Tự Tháp, ven bờ phía tây hồ Hoàn Kiếm, nay là khu vực các phố Lê Thái Tổ, Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

    Thuở nhỏ, Ông học với cha, sau cùng Nguyễn Văn Siêu, Ngô Thế Vinh, Lê Duy Trung kết giao thành "một chiếu bạn bút nghiên", nuôi sự nghiệp chấn hưng văn hoá Thăng Long. Năm 1825, Vũ Tông Phan đỗ cử nhân, ngay năm sau (1826), Ông đỗ tiến sĩ và ra làm quan 7 năm dưới triều Minh Mạng. Sau vì "làm quan chỉ cốt lấy nhân từ, ân huệ" (sách Đại Nam liệt truyện) nên Ông bị cách chức, nửa năm sau được khởi phục làm Giáo thụ phủ Thuận An rồi được thăng chức Đốc học Bắc Ninh. Nhưng Vũ Tông Phan sớm hiểu ra rằng "học cổ làm quan nay chẳng hợp" nên mới 33 tuổi đã "dẫn bệnh xin về", dựng trường Hồ đình, dạy học ở thôn Tự Tháp ven bờ phía tây hồ Hoàn Kiếm. Tại đây, Ông đã đào tạo được nhiều học trò đỗ đạt cao, chẳng những trở thành những trọng thần trong triều Nguyễn mà còn là những văn thân, sĩ phu yêu nước thương dân, kiên quyết đứng vào phe chủ chiến chống quân xâm lược Pháp, điển hình như hoàng giáp Thượng Thư bộ lại Nguyễn Tư Giản, hoàng giáp Đốc học Hà Nội Lê Đình Diên, các phó bảng Phạm Hy Lượng, Dương Danh Lập, các cử nhân Vũ Duy Ninh và Ngô Văn Dạng....

    Vũ Tông Phan cũng là một nhà hoạt động văn hoá lỗi lạc trong nửa đầu thế kỷ 19. Trước tình trạng sa sút của Hà Nội về mặt văn hoá- xã hội do chủ trương hạ thấp văn hoá Thăng Long, độc tôn văn hoá Huế, ông đã cùng các danh sĩ như các tiến sĩ Nguyễn Văn Lý, Lê Duy Trung, phó bảng Nguyễn Văn Siêu... tập hợp sĩ phu trong Văn hội Thọ Xương (1832) và Hội hướng thiện (1836), đều do Vũ Tông Phan làm hội trưởng, khởi xướng công cuộc chấn hưng văn hoá Thăng Long, kêu gọi sĩ phu về "làm quân tử trong làng, làm thầy đồ trong xã", mở hàng loạt trường lớp tư thục quanh vùng hồ Gươm (1834) và ở các làng xã. Hoà hợp với thiên nhiên và tầm nguyên phỏng cổ (truy tìm nguồn cội, học hỏi cổ xưa) vốn là một định hướng trong công cuộc chấn hưng văn hoá mà Vũ Tông Phan cùng các bạn hữu của Ông khởi xướng. Ông cũng là người chủ trì việc dựng Văn chỉ Thọ Xương (1836) và sáng lập đền Ngọc Sơn (1841), chủ yếu dùng làm những trụ sở hoạt động chấn hưng văn hoá Thăng Long. Trên bia ký của Vũ Tông Phan (hiện còn ngay trong Đền), từ năm 1841 đến mùa thu năm 1842 Ông cho xây dựng đền Văn Xương, làm tượng thánh đặt vào chính giữa Đền, năm 1843 lập bia ghi lại sự tích Đền và lập bia ghi công đức xây Đền. Tôn chỉ văn hoá- giáo dục của Hội hướng thiện và của đền Ngọc Sơn là thờ hai thần Văn Xương và Vũ Đế (theo lý tưởng văn võ kiêm toàn của Nho gia) và chủ yếu dùng làm nơi cho "bọn sĩ phu kết bạn với nhau", "hoà hợp với thiên nhiên", "tàng khí, tu thân, du ngoạn, nghỉ ngơi", "làm những việc có ích cho người". Ông coi nơi này như một cơ sở giáo hoá sĩ dân, khắc in và tàng trữ sách, giảng đạo lý cổ truyền, duy trì thuần phong mỹ tục, chống mê tín. (Sau này, khi thực dân Pháp chiếm hoàn toàn Việt Nam, Hội hướng thiện phải chia nhỏ ra và bắt đầu đưa bài vị Trần Hưng Đạo vào thờ trong Đền để mong giữ lòng trung hiếu và sống theo đạo nhân nghĩa của Ngài. Nơi đây cũng đã được Bác Hồ đến thăm vào dịp Giáp Tết độc lập đầu tiên). Bất chấp ý đồ của triều đình Huế, những nỗ lực của sĩ phu và các tầng lớp dân chúng đã đưa Hà Nội từ chỗ suy đồi, vươn lên vị trí thành phố đứng đầu vương quốc về nghệ thuật, về kỹ nghệ, thương nghiệp, sự giàu có, số dân đông đúc, sự lịch duyệt và học vấn" (theo tờ Le Courrier de Saigon). Công lao của ông đã được người đời ghi nhận: Sinh thời, sĩ phu tôn ông là đại tiên sinh (Nguyễn Văn Lý), khắp bốn phương đầy học trò (Nguyễn Văn Siêu); khi mất đi "xa gần mấy nghìn người trở lên đến hội táng, sĩ phu thương mến lắm" (Đại Nam liệt truyện).

    Tiến sĩ Vũ Tông Phan, một trong những người sáng lập đền Ngọc Sơn (1841)

    Vũ Tông Phan còn là một nhà thơ lớn của đất Thăng Long. Ông là bạn xướng hoạ với Thần Siêu, Thánh Quát. Thơ văn của Vũ Tông Phan không chỉ "dồi dào tư tưởng hoài cổ" (từ điển văn hoá Việt Nam) mà bộc lộ rõ nét tư tưởng yêu nước thương dân ("trung với dân"), tình yêu thiên nhiên và con người, ý thức tự hào về truyền thống văn hiến của dân tộc, những trăn trở trước nhân tình thế thái và những định hướng hoạt động văn hoá, giáo dục, của cả một lớp người tâm huyết với di sản văn hiến của dân tộc, biết đồng tâm hiệp lực để gìn giữ và phát huy di sản quý giá ấy. Ông đã để lại hơn 400 bài thơ văn thấm đậm tinh thần tự hào về lịch sử dựng, giữ nước anh hùng và nền văn hiến cổ xưa huy hoàng, chan chứa tình cảm giao hoà với thiên nhiên nhiên đất nước và con người.... Tiêu biểu là các tập thơ như Tô Khê tuỳ bút tập, Lỗ Am thi tập, Hoạn lữ nhàn vịnh, Hoàn Kiếm thập vịnh.

    Có lẽ chưa có một sĩ phu nào viết nhiều đến thế- hàng trăm bài về cảnh và người Thăng Long ngàn năm văn hiến, các bài Văn bia ở Đền Hai Bà (Đồng Nhân), miếu Hoả thần (30 Hàng Điếu), đền Ngọc Sơn, đền Tam Nguyên trong ngõ Phất Lộc... Năm 1987 và 1996 đã phát hiện thêm 2 bài văn bia là Trùng tân tam nguyên từ bi ký và Đường An văn chỉ bi. Trong thời gian xây Đền Ngọc Sơn, ông đã sáng tác chùm thơ Thăng Long hoài cổ thập tứ thủ, nơi lưu danh hai vị danh sư Bắc Hà đương thời có nhiều học trò thành đạt (Tự Tháp Vũ tiến sĩ chính là Vũ Tông Phan, còn Đông Tác tiến sĩ là Nguyễn Văn Lý- người bạn tâm huyết của ông trong sự nghiệp chấn hưng văn hoá Thăng Long). Hồ Gươm là nơi từng được nhiều danh sĩ ngâm vịnh, làm thơ, song chỉ một vài bài. Riêng Vũ Tông Phan sáng tác cả một chùm mười bài thơ về danh thắng này, điều này không phải ngẫu nhiên bởi ông đã có ý chọn khu vực hồ Hoàn Kiếm làm trung tâm văn hoá giáo dục mới của Hà Nội, thay cho khu vực Văn Miếu- Quốc Tử Giám mà triều Nguyễn quy định chỉ còn là nơi xuân thu nhị kỳ tế lễ Khổng Tử và các tiên hiền của Nho giáo. Không kể các tập văn sách giáo khoa có đề tự hiệu của Vũ Tông Phan nhưng còn cần được khảo sát, minh định niên đại, trước tác văn xuôi của ông cho đến nay mới chỉ phát hiện được tất cả là 5 bài văn bia và một bức thư. Đây là một số lượng văn bản không lớn nhưng phản ánh rõ tư tưởng và sự nghiệp của ông. Vũ Tông Phan viết văn bia không chỉ để ghi lại sự việc, mà như Ông tự bộc bạch: "Tôi muốn mượn tấm bia để bày tỏ ý kiến của tôi" (Trưng Vương sự tích bi ký)...

    Ngày 15-8-2001, tại Văn Miếu- Quốc Tử Giám (Hà Nội), Hội khoa học lịch sử, Trung tâm văn hoá và ngôn ngữ Đông Tây phối hợp với Hội đồng tộc Vũ Tông- Lương Ngọc đã tổ chức Lễ kỷ niệm 150 năm ngày mất (1851- 2001) của Danh nhân văn hoá Vũ Tông Phan và kỷ niệm 160 năm Hội hướng thiện sáng lập đền Ngọc Sơn (1841- 2001). Tại Lễ kỷ niệm, các nhà sử học Vũ Khiêu, Dương Trung Quốc, Phan Văn Các... đã trình bày các tham luận chứng minh công lao của Vũ Tông Phan với việc chấn hưng văn hoá Thăng Long, sáng lập ra đền Ngọc Sơn và các trước tác của ông để lại cho hậu thế. Nhân dịp này, Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây và gia tộc họ Vũ Tông đã cho ra mắt đọc giả bộ Tuyển tập thơ văn Vũ Tông Phan với 95 sáng tác văn học, bao gồm 87 bài thơ, 2 bài ký, 5 bài văn bia, 1 thư riêng được tuyển chọn trong di sản thơ văn của ông.

    Ông mất ngày 26 tháng 6 năm Tân Hợi (1851) thọ 51 tuổi.

    (Tổng hợp) 25/08/2010

    baohaiduong.vn/danh-nhan/tien-si-vu-tong-phan-nguoi-gop-cong-sang-lap-den-ngoc-son-42557

    Sự hồi sinh một di tích văn hóa hàng đầu ở Hà Nội xưa

    Bản đồ Hà Nội 1873.

    Trên bản đồ Hà Nội 1873 do người Pháp họa trước khi đánh thành Hà Nội lần thứ nhất, có hình vẽ một số di tích lịch sử văn hóa. Ở hình trích xuất đây, có thể thấy một đoạn ghi 3 Hán tự “Thiên lí lộ”, tức quốc lộ 1 ngày nay, cắt ngang hồ Bảy Mẫu. Phía dưới, bên trái, là chùa Liên Phái với hai tháp đứng giữa cánh đồng lúa, trong đó có 4 mẫu 6 sào ruộng tế tự của môn sinh trường Hồ Đình “đặt” để lấy hoa lợi cúng giỗ Thầy Vũ Tông Phan.

    Khuôn viên tam cấp, ở bên phải, là đàn Nam Giao triều Lê, người Pháp lấy xây nhà máy, di tích cuối cùng là tấm bia đá lớn hiện dựng trong vườn Bảo tàng Lịch sử. Dưới cùng, góc trái trên bản đồ, có cụm ba tòa nhà lớn trong khuôn viên vuông vắn, phía trước có ao hình  bán nguyệt.

    Đó là Văn chỉ Thọ Xương, thực chất là “Văn Miếu” của cả Hà Nội trong thế kỷ XIX, vì huyện Thọ Xương xưa gần như bao quát 4 quận nội thành Hà Nội trước 1954. Lai lịch di tích lịch sử - văn hóa này, quan trọng nhất nhì Hà thành thế kỷ XIX, như sau.

    1. Sau khi giành thắng lợi trong cuộc nội chiến khốc liệt với Tây Sơn, triều Nguyễn, vốn nghi kị sĩ phu Bắc Hà, nên chuyển kinh đô vào Huế. Để độc tôn “Thần kinh” các vua Nguyễn cho bạt bớt chiều cao của thành Hà Nội, bắt hạ biển “Thái học môn” (tức là Đại học) ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám, thay bằng biển “Văn miếu môn”, chức Đốc học Bắc thành cũng bị giáng xuống thành Giáo thụ phủ Hoài Đức, kinh sách bắt chuyển hết về Quốc Tử Giám Huế, năm 1821 mới xây xong. Văn Miếu Hà Nội, bị triều Nguyễn bỏ rơi, nhanh chóng xuống cấp thành phế tích. Tiến sĩ Vũ Tông Phan từ Huế ra nhậm chức Giáo thụ phủ Thuận An xứ Kinh Bắc, trong bài thơ Qua thăm Quốc Tử Giám cũ, sáng tác năm 1831 từng cám cảnh hoang tàn của trung tâm văn hóa - giáo dục nơi cố đô Thăng Long:

    Trăm vua hình bóng tàn cây cổ,

    Muôn thuở phong văn nát đá bia,

    Trở lại thiếu thời nơi trọ học

    Xiển Do cô tịch bóng chiều đi...

    * Xiển Do đường là giảng đường trong Quốc Tử Giám, nơi danh sư triều Lê là cụ Nghè Lập Trai Phạm Quý Thích từng giảng học.

    Cảnh suy đồi về thuần phong mỹ tục của đất nghìn năm văn hiến được ông Nghè làng Tự Tháp ven bờ tây hồ Hoàn Kiếm vẽ lên sinh động như thấy trước mắt:

    Nay đương phát sinh nơi đô thành

    Nhiều hạng dân du thực du thủ,

    Đi học chỉ cột giật tiếng Nho,

    Đi buôn chửa giàu đã khoe của,

    Cư dân thường túm tụm ba hoa,

    Bộ hành áo quần cực diêm dúa,

    Sòng bạc tràn lan khắp gần xa,

    Chiếu rượu, sạp ca thâu sớm tối...

    (Đến đầu địa giới Hà Nội, 1831)

    Trước tình hình đó, lại vốn đã bất bình với triều Nguyễn miệng nói “vương đạo”, nhưng thực thi “bá đạo”, cai trị bằng chính sách sưu cao thuế nặng, đàn áp nhân dân, tiến sĩ Vũ Tông Phan mới lặn lội biển hoạn 7 năm, mùa hè 1833 đã kiên quyết từ quan, về lại thôn Tự Tháp ven bờ tây hồ Hoàn Kiếm, mở trường dạy học và ôm ấp ý tưởng chấn hưng văn hóa Thăng Long.

    Cựu bang văn nhã truyền tiên tiến / Cổ đạo nghi hình địch hậu sinh (Xin tạm dịch: “Văn phong nước cũ truyền người trước / Mực thước đạo xưa dẫn kẻ sau” - chữ cố thư pháp gia Lê Xuân Hòa viết trên bìa sau sách: Vũ Tông Phan - Cuộc đời và thơ văn).

    Cựu bang văn nhã truyền tiên tiến / Cổ đạo nghi hình địch hậu sinh (Xin tạm dịch: “Văn phong nước cũ truyền người trước / Mực thước đạo xưa dẫn kẻ sau” - chữ cố thư pháp gia Lê Xuân Hòa viết trên bìa sau sách: Vũ Tông Phan - Cuộc đời và thơ văn).

    2. Nhưng kẻ sĩ xưa nay đều nghèo, chỉ giàu ý tưởng, mà sự nghiệp ông  định khởi xướng cần đến nhiều nhân tài, vật lực... Thì như một nhân duyên: Ngay khi Vũ Tông Phan từ quan, một sĩ phu giàu có bậc nhất Hà thành ở thôn Phất Lộc phường Hà Khẩu, Hà Nội xưa đã “diên sư giáo tử” (trải chiếu mời thầy về nhà dạy con cháu). Thương nhân đó là Tú Lĩnh Bùi Huy Tùng, thuộc dòng họ Bùi của vị tiên tổ Bùi Văn Mạo, vốn từ xã Phất Lộc huyện Đông Quan - Thái Bình, năm 1717 đem cả gia tộc thiên cư lên Thăng Long để “mưu doanh sản nghiệp” (Bùi thị gia phả ký. Tự Đức năm thứ 19[1866]). Một quyết tâm táo bạo ở thời buổi “trọng nông khinh thương”!

    Tú Lĩnh Bùi Huy tùng cũng từng nhiều năm đèn sách và mấy phen lều chõng thi hương, nhưng chỉ vào đến tam trường. Ông cũng từng vào Kinh làm quan: Giữ chức tiểu lại Tri bạ (phụ trách sổ sách) tại Kiến An Vương Phủ. Nhưng rồi sớm hiểu ra: Cả cử nghiệp lẫn hoạn lộ không phải sở trường của ông, nên cũng sớm từ quan về cùng bà vợ tháo vát họ Cao kế nghiệp tiên tổ Văn Mạo - buôn bán.

    Về phía tiến sĩ Vũ Tông Phan, hẳn là nhờ ngồi dạy học trong tư gia họ Bùi, gần gũi với ông nhiều năm tháng, nên đã nhận ra doanh nhân Bùi Tú Lĩnh có cái tâm rất lớn, chứ không phải như thành kiến ông từng phát biểu mới vài năm trước (1831) trong bài thơ tự cười sự vô dụng của mình: "Buôn bán thì lo để tiếng cắt cổ người". Người xưa, đặc biệt tầng lớp Nho sĩ, rất khắt khe trong việc hôn nhân. Trong nhận thức của Nghè Phan, sau các biến cố của chiến cuộc Tây Sơn - Nguyễn Ánh, lại trải qua kinh nghiệm tiếp xúc cá nhân, hẳn đã có chuyển biến tích cực về vai trò của doanh nhân trong xã hội nên ông đã cho con trai cả là tú kép Vũ Như Trâm kết hôn với cháu họ ông Tùng là Bùi Thị Dĩnh. Mối quan hệ thông gia ấy càng liên kết chặt chẽ một kẻ sĩ và một doanh nhân, đồng tâm vì sự nghiệp chấn hưng văn hóa.

    3. Được sự hỗ trợ về tài lực của Tú Lĩnh Bùi Huy Tùng, vị tiến sĩ khai khoa cho huyện Thọ Xương đã tập họp sĩ phu Hà thành, trước hết là bè bạn đồng môn, xưa cùng thụ giáo Lập Trai tiên sinh, nay chung chí hướng chấn hưng văn hóa - giáo dục Thăng Long - Hà Nội: Tiến sĩ Nguyễn Văn Lý, phó bảng Nguyễn Văn Siêu, cử nhân Cao Bá Quát, tiến sĩ Lê Duy Trung, cử nhân Trần Văn Vi, phó bảng Diệp Xuân Huyên... Việc đầu tiên họ làm là lập ra Văn hội Thọ Xương (1832) làm nòng cốt thống nhất chí hướng để tập hợp tất cả các vị có khoa danh từ tú tài trở lên là tầng lớp có vai trò dẫn đạo sĩ dân trong làng xã xưa. Văn hội phải có trụ sở hoạt động thường kì, mà Văn Miếu Hà Nội thì theo quy chế của triều Nguyễn, chỉ còn chức năng tế lễ Khổng Tử cùng chư vị thánh hiền là học trò Ngài. Bởi vậy năm 1836 hai vị đến thời điểm ấy đã đỗ tiến sĩ là Vũ Tông Phan (1826) và Nguyễn Văn Lý (1832)  cùng đề xuất với Tú Lĩnh Bùi Huy Tùng xây dựng Văn chỉ của huyện Thọ Xương ở phường Hồng Mai - cũng một địa linh từ thời Lý - Trần.

    Bùi Huy Tùng đã hiến hơn 1 mẫu ruộng làm mặt bằng và hàng ngàn quan tiền (bấy giờ một con trâu chỉ giá 5 quan!), tự trông coi xây dựng, về sau lại cung tiến thêm đến 10 mẫu ruộng và ao để tạo kinh phí duy trì hoạt động của Văn chỉ Thọ Xương và hội Hướng Thiện. Bạ tịch Văn chỉ Thọ Xương ghi nhận: Văn chỉ Thọ Xương "thành lập được là nhờ Bùi Tú Lĩnh (Tùng), chủ trương được (tức hoạt động có phương hướng rõ ràng) là bởi Vũ Hoán Phủ (Phan)".

    Công lao to lớn của Tú Lĩnh Bùi Huy Tùng ngay năm 1838, khi khánh thành Văn Chỉ Thọ Xương, đã được khắc trên tấm bia đá lớn Thọ Xương tiên hiền từ vũ bi ký, văn bia do TS Nguyễn Văn Lý soạn, dựng năm 1838. Còn vinh dự hơn thế là sự tri ân của lòng người: Trong lễ thượng thọ 60 tuổi của vợ chồng doanh nhân họ Bùi, tổ chức vào mùa xuân năm 1851, có đến hai chục tiến sĩ, cả đã về hưu dạy học lẫn đang làm quan trong triều/ngoài quận, gửi thơ, trướng, đối đến chúc mừng. Và sau khi Tú Lĩnh Bùi Huy Tùng mất (1862), văn thân huyện Thọ Xương cùng con cháu đã phối thờ tiên sinh ở Văn chỉ, những mong được đời đời hương khói .

    4. Hoạt động của Văn chỉ Thọ Xương và đền Ngọc Sơn đều do tiến sĩ Vũ Tông Phan chủ trì. Tuy nhiên, đền Ngọc Sơn với hội Hướng Thiện là tổ chức rộng rãi hơn về thành phần xã hội: Tấm bia gắn tường bên hữu hậu cung đền cho biết: tham gia hội Hướng Thiện, ngoài nho sĩ còn có thương nhân, binh sĩ và cả một số quan chức đương nhiệm. Văn hội Thọ Xương chỉ gồm nho sĩ có khoa danh - tầng lớp đứng đầu tứ dân (sĩ-nông-công-thương), có thể coi là nòng cốt trong công cuộc vận động chấn hưng văn hóa - giáo dục Thăng Long Hà Nội. Các phương châm hoạt động chấn hưng văn hóa - giáo dục đều xuất phát từ Văn chỉ, được thể hiện trên các hoành phi câu đối và văn bia. Ngay tại bái đường Văn chỉ từng treo câu đối:

    Cựu bang văn nhã truyền tiên tiến / Cổ đạo nghi hình địch hậu sinh (Xin tạm dịch: Văn phong nước cũ truyền người trước / Mực thước đạo xưa dẫn kẻ sau).

    Định hướng ấy cũng gửi gắm trong vế đối ở cổng đền Ngọc Sơn: “Tầm nguyên phỏng cổ thử trung vô hạn phong quang” (Truy tìm cội nguồn, học hỏi đạo xưa - trong việc ấy vô hạn ánh sáng phong văn).

    Chính là trên tấm bia Văn chỉ Thọ Xương từ 180 năm trước đây đã khắc sâu lời kêu gọi, thể hiện một phương châm sống của tầng lớp trí thức tiến bộ mọi thời đại: “Vi hương quân tử, vi xã tiên sinh” (làm người quân tử trong làng, làm thầy đồ trong xã), mà đối với “quân tử” thì người chủ trì Văn hội đã xác định nghĩa vụ rõ ràng là “biết lo cho dân” (“quân tử vụ dân chi nghĩa”).

    Vật đổi sao dời... Trung tâm văn hóa - giáo dục lớn nhất nhì Hà Nội bị chiếm dụng, bị hủy hoại, trở nên hoang tàn...

    May sao, nhờ có đường lối Đổi mới, di tích lịch sử - văn hóa Văn chỉ Thọ Xương đã bắt đầu hồi sinh, dẫu trên diện tích chỉ bằng 1/10 khi xưa (360/3.600m2), nhưng đã khá khang trang. Tấm bia quý giá, lưu giữ cho nghìn đời mai sau những tư tưởng và việc làm thanh cao của tiền nhân, một thời gian dài bị vứt nằm lăn lóc phơi mưa nắng bên vệ ngõ, đã được dựng lại ngay ngắn trong đền, tuy chưa đúng vị trí trang trọng nhất khi xưa - ở bên tả bái đường (hiện nay dựng bên hữu là sai vị trí, lại chắn trước mặt bia công đức nhỏ là thất lễ!). 

    Hy vọng rằng trong năm mới, phần quan trọng nhất là nội dung văn hóa phong phú của Văn chỉ Thọ Xương cũng sẽ được hồi sinh. Trước hết, những hiện vật của Văn chỉ, như Bảng tiên hiền, khánh đá và phỗng đá, còn lưu lạc tại các di tích khác, phải được trả lại cho chủ nhân đích thực. Hoành phi, câu đối cổ, sâu sắc ý nghĩa nhân văn phải được phục chế và dịch sang tiếng Việt. Và cùng toàn văn bài dịch bài ký trên tấm bia cổ vật cần niêm yết công khai, để mọi người nhận thức rõ giá trị văn hóa mà tham gia bảo tồn và phát huy tác dụng.

    Khi ấy, Văn chỉ Thọ Xương xứng đáng là một Di tích văn hóa Quốc gia!

    Nhà giáo Ưu tú Vũ Thế Khôi

    laodong.vn/van-hoa/su-hoi-sinh-mot-di-tich-van-hoa-hang-dau-o-ha-noi-xua-651199.ldo 12/01/2019

    Trí thức xứ Đông xưa với sự nghiệp giáo dục Thăng Long Hà Nội

    Chỉ 60 năm sau khi định đô ở Thăng Long (1010), các vua nhà Lý đã cho xây dựng Văn Miếu và lập trường Quốc Tử Giám (1070) ở kinh thành làm nơi học tập cho con em quý tộc và quan lại. Trong một tấm bia ở Văn Miếu, tiến sĩ Thân Nhân Trung đã viết: “Mở khoa thi chọn kẻ sĩ là việc đầu tiên trong phép trị nước. Tô điểm cơ đồ, mở mang giáo hóa cho đời thịnh trị là nhờ ở đó. Sửa sang chính sự, sắp đặt mọi việc, giáo hóa nhân dân, gây phong tục tốt là nhờ ở đó”.

    Quốc Tử Giám là trường đại học đầu tiên của Thăng Long, là nơi đào tạo nhân tài cho kinh đô và cho cả nước. Tế tửu Quốc Tử Giám là Hiệu trưởng của trường Đại học quốc gia đó. Số tiến sĩ được cử làm Tế tửu Quốc Tử Giám, người trấn Hải Dương xưa, có đủ cứ liệu xác minh, được 10 người. Trừ một người là tế tửu Quốc Tử Giám Huế, một người quê ở Tiên Lãng, một người quê ở Mỹ Hào mới cắt về Hải Phòng và Hưng Yên cuối thế kỷ XIX không tính. Vậy còn 7 người thuộc đất Hải Dương nay, đã giữ chức vụ tế tửu Quốc Tử Giám Thăng Long. Đó là các tiến sĩ:

    – Nguyễn Ứng Long (Phi Khanh) người Chi Ngãi, huyện Chí Linh.

    – Nguyễn Lũ người làng Tuyến Cử, huyện Bình Giang.

    – Đinh Doãn Minh, người Hương Gián, huyện Bình Giang.

    – Vũ Quỳnh người Mộ Trạch, huyện Bình Giang.

    – Nguyễn Phong người Kiệt Đạc, huyện Chí Linh.

    – Nhữ Tiến Dụng, người Hoạch Trạch, huyện Bình Giang.

    – Vũ Huy Đỉnh, người Mộ Trạch, huyện Bình Giang.

    Nguyễn Ứng Long (1355 – 1428) đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) khoa Giáp Dần (1374) niên hiệu Long Khánh thứ hai song không được vua Trần thu dụng vì là con thượng dân. Khi Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần, ông đổi tên là Phi Khanh, ra làm quan với nhà Hồ được cử làm Học sĩ Viện Hàn lâm (1401) rồi lần lượt thăng lên Thống chương đại phu, Đại lý tự khanh kiêm Trung thư thị lang, Tư nghiệp Quốc Tử Giám.

    Khi quân Minh xâm lược nước ta, ông cùng vua tôi nhà Hồ bị giặc bắt giải về Kim Lăng. Nguyễn Trãi cùng em là Phi Hùng tiễn cha đến tận ải Nam Quan. Năm Mậu Thân (1428) ông mất ở Trung Quốc. Phi Hùng đem hài cốt cha về an táng ở núi Bái Vọng thuộc huyện Chí Linh. Nay mộ vẫn còn di tích trên đỉnh núi.

    Vũ Quỳnh (1452 – 1516) người làng Mộ Trạch huyện Đường An, nay thuộc xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, đỗ Hoàng giáp khoa Mậu Tuất (1478) đời Lê Thánh Tông, làm quan đến chức Thượng thư bộ Công, bộ Lễ, bộ Binh, kiêm chức Quốc Tử Giám tư nghiệp, sử quán tổng tài.

    Năm Hồng Thuận thứ hai (1510) Lê Tương Dực sai ông làm bộ Việt sử. Tháng 4 năm sau (1511) bộ sử ấy làm xong lấy tên là Đại Việt thông giám thông khảo, gồm ngoại kỷ và bản kỷ tổng cộng 26 quyển. Sự việc này được ghi rõ trong Đại Việt sử ký toàn thư. Ông còn là đồng tác giả của Lĩnh Nam chích quái liệt truyện gồm 22 (hoặc 23) truyện cổ dân gian, nguyên của Trần Thế Pháp sưu tầm và biên soạn.

    Đền Ngọc Sơn đầu thế kỷ XX, trụ sở của Hội Khuyến Thiện. Ảnh: Bưu ảnh cổ.

    *

    Song đó mới chỉ là giáo dục quốc lập. Sự đóng góp của người xứ Đông cho giáo dục ngoài quốc lập ở Thăng Long cũng rất đáng trân trọng.

    Vũ Tông Phan (1800 – 1851) chính quán xã Lương Ngọc, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, đỗ tiến sĩ năm Bính Tuất (1826) thời Minh Mạng, làm quan chưa đầy 8 năm đã cáo về mở trường dạy học ở thôn Tự Tháp – phường Báo Thiên, huyện Thọ Xương, Hà Nội, thường gọi là trường ông Nghè Tự Tháp. Trường đào tạo được nhiều nhân tài cho Hà Nội vào cuối thế kỷ XIX như hoàng giáp Nguyễn Tư Giản người huyện Đông Anh, Hà Nội, hoàng giáp Lê Đình Diên người làng Mọc ngoại thành Hà Nội, các cử nhân Nguyễn Huy Đức, Ngô Văn Đặng đều là người Thọ Xương, Hà Nội.

    Cách trường Tự Tháp không xa trường Phương Đình của Phó bảng Nguyễn Văn Siêu, là học quán Thận Tư của cử nhân Trần Văn Vi và ngược lên phía bắc một chút là trường của Hy Vĩnh Lê Duy Trung, Mẫn Hiên Cao Bá Quát; sau đó là trường Vũ Thạch (số 7 Tràng Thi) của Nguyễn Huy Đức, trường Kim Cổ (đầu phố Hàng Gai) của Ngô Văn Đạng và tới đầu thế kỷ XX là trường Đông Kinh nghĩa thục ở phố Hàng Đào của cử nhân Lương Văn Can. Hiệu trưởng các trường nổi tiếng ấy đều là bạn bè hoặc học trò của ông Nghè Tự Tháp Vũ Tông Phan. Có người đã nhận xét nghiêm túc rằng đây là khu Hàn Lâm của Thăng Long Hà Nội ngàn năm văn hiến.

    Đền Ngọc Sơn tương truyền là đài câu cá dưới thời Lê Trịnh, sau trở thành ngôi chùa của gia đình ông Tín Trai, sau đó nhượng lại cho Hội Khuyến Thiện do Vũ Tông Phan làm Hội trưởng. Từ đây Ngọc Sơn được tu sửa thành đền, là trụ sở của Hội Khuyến Thiện, một tổ chức của các sĩ phu Hà Thành lúc đó như: Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Trần Văn Vi… và đương nhiên  có Vũ Tông Phan. Hội cũng đóng vai trò một nhà xuất bản lớn phổ biến những tác phẩm nâng cao dân trí cổ vũ lòng yêu nước. Đầu năm 1966 theo kiểm kê của Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội, số ván khắc in ở đây còn giữ được hơn một nghìn bản. Mục đích của Hội là làm rõ đức sáng của người trí thức Thăng Long, đổi mới dân sinh.

    Tác phẩm của ông gồm Tô Khê tùy bút, Lỗ An di cảo thi tập, Thăng Long hoài cổ, Kiếm hồ thập vị… gồm ba, bốn trăm bài thơ. Thơ có nhiều suy ngẫm độc đáo, triết lý sâu sắc về thế sự.

    Trong chuẩn bị kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội, Vũ Tông Phan được coi là người khởi xướng chấn hưng văn hóa Thăng Long.

    *

    Học giả Nguyễn Văn Ngọc hiệu là Ôn Như, tự là Đông Trạch, sinh ngày 14-5-1890, nguyên quán làng Hoạch Trạch (tên nôm là làng Vạc) xã Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.

    Thuở nhỏ, Nguyễn Văn Ngọc theo học Hán văn, nhạy cảm trước xu thế thời đại, ông chuyển sang học chữ Quốc ngữ và chữ Pháp. Năm 1905 ông vào học trường Bưởi, khóa đầu tiên (1905 – 1909). Do có quá trình học tập tốt, ông được giữ lại dạy trường Bưởi, trường Hậu bổ, trường Sư phạm… rồi làm thanh tra học chính Đông Dương phụ trách cục Tu thư, đốc học Hà Đông, Hội trưởng Hội Ái hữu các nhà giáo, thành viên Hội Khai trí tiến đức, có chân trong nhóm Cổ Kim thi xã ở Hà Nội và là cây bút chủ lực của nhóm, viết nhiều thể loại bằng Quốc ngữ, Pháp ngữ, Hán ngữ.

    Ông là tác giả của các sách giáo khoa như Phổ thông độc bản (1922), Phổ thông độc bản lớp đồng ấu (1930), Luân lý giáo khoa thư  (1932), Giáo khoa văn học An Nam (1936), Đông Tây ngụ ngôn (1927).

    Về khảo cứu ông viết Cổ học tinh hoa (1925) tiếp thu tinh túy văn hóa Trung Quốc, Nam thi hợp tuyển (1927) (Tuyển tập thơ cổ Vệt Nam) và Đào nương ca (1932) (ngày nay gọi là hát ca trù), Truyện cổ nước Nam (1934), Ngụ ngôn (1935)…

    Trong lĩnh vực sưu tầm nghiên cứu văn học dân gian, Nguyễn Văn Ngọc đã để lại những bộ sách có giá trị: Tục ngữ phong giao gồm hai tập với hơn 6.500 câu tục ngữ và 850 bài ca dao. Truyện cổ nước Nam bao gồm các loại truyện cổ tích, thần thoại, tiếu lâm, ngụ ngôn.

    Trong các bộ Nam thơ hợp tuyển (Tuyển tập thơ cổ Việt Nam) và Cổ học tinh hoa, sau mỗi bài thơ, mỗi mẩu chuyện đều có phần giải nghĩa những từ ngữ điển tích khó hiểu và phần lời bàn của người làm sách để hướng dẫn người đọc. Riêng bộ Cổ học tinh hoa được biên soạn xong vào năm 1925 đến nay đã trải qua hàng chục lần tái bản, điều đó nói lên giá trị nhất định của cuốn sách.

    Đặc biệt, trong thập niên đầu của thế kỷ XX, Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc đã cùng người anh cả là Nguyễn Ngọc Oánh và Đỗ Thận chung tiền và cổ động thêm vốn lập rạp hát chèo Sán Nhiên Đài đầu tiên ở Hà Nội, tại phố Đào Duy Từ.

    Học giả Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc đã có những thành tựu giá trị góp phần xây dựng nền giáo dục quốc ngữ ở thời kỳ đầu, cống hiến tích cực vào sự nghiệp bảo vệ nền văn hóa cổ truyền của dân tộc.

    Ông qua đời ngày 26-4-1942 tại Thái Hà Ấp, nay thuộc quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Thân thế và sự nghiệp của ông đã được viết trong nhiều công trình biên khảo phổ biến. Hiện nay ở Thủ đô Hà Nội có một đường phố mang tên ông: phố Nguyễn Văn Ngọc.

    *

    Nhà giáo Vũ Đình Liên, quê ở Châu Khê, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, sinh tại Hà Nội năm 1913 trong một gia đình nhà nho nghèo. Năm 1932, sau khi đậu tú tài, ông bước vào nghề dạy học ở các trường tư thục Gia Long, Thăng Long và Hoài Đức (Hà Nội).

    Năm 1936, bài thơ “Ông Đồ” của nhà giáo Vũ Đình Liên đã được đăng trên tờ Tinh hoa nhật báo, đúng lúc nền giáo dục Hán học đang bị suy tàn, đã góp phần mở màn cho phong trào thơ mới và đưa tác giả đi vào thi đàn Việt Nam như một ngôi sao sáng.

    Là nhà giáo Tây học, ông đã có cái nhìn cảm thông, chia sẻ với số phận hẩm hiu của các “ông đồ”. Qua khổ thơ cuối:

    Năm nay đào lại nở

    Không thấy ông đồ xưa

    Những người muôn năm cũ

    Hồn ở đâu bây giờ.

    Hoài Thanh, tác giả Thi nhân Việt Nam (trang 74) nhận xét: “Theo đuổi nghề văn mà làm được một bài thơ như thế cũng đủ, nghĩa là đủ để lưu danh, đủ với nghĩa đời”.

    Khoảng thập niên 60, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội chỉ có các phân khoa ngoại ngữ Nga, Trung, Anh. Được Thủ tướng Phạm Văn Đồng gợi ý và đích thân trao nhiệm vụ, thầy Vũ Đình Liên đã tìm gặp một số giáo viên ở khoa Pháp văn và ông được cử làm chủ nhiệm khoa từ năm 1962 đến năm 1975.

    Trong những năm khó khăn gian khổ sơ tán, ông cùng sinh viên thắp đèn dầu học tập, cùng ăn sắn, ăn khoai, chia ngọt sẻ bùi với họ. Gia đình, bạn bè biết được đức độ của thầy Liên thảy đều động viên và cảm phục tấm lòng nhân ái mênh mông của thầy.

    Điều thật xúc động, khi Nhà nước phong tặng thầy danh hiệu “Nhà giáo Nhân dân”, danh hiệu cao quý của nghề dạy học mà thầy đã gắn bó cả cuộc đời, thầy trân trọng tiếp nhận, còn mười triệu đồng tiền thưởng kèm theo, thầy tặng lại hết cho các cháu học sinh nghèo.

    Hải Dương chẳng những là trấn phên giậu phía đông của Thăng Long – Hà Nội mà còn có quan hệ mật thiết với sự nghiệp giáo dục của Thăng Long – Hà Nội.

    Lưu Đức Ý

    Xưa & Nay – Số 279 (03/2007)

    Vũ Tông Phan từ quan về dạy học

    Vũ Tông Phan (còn gọi là Võ Tông Phan) tự Hoán Phủ, hiệu Lỗ Am, Đường Xuyên sinh năm Canh Thân (1800), nguyên quán làng Hoa Đường, huyện Đường An sau đổi là làng Lương Ngọc, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Do ông nội đỗ hương cống (cử nhân) làm Thị nội Văn chức trông coi việc học hành trong phủ Chúa Trịnh, nên gia đình ông đã di cư ra phường Báo Thiên, sau là thôn Tự Tháp, ven bờ phía tây hồ Hoàn Kiếm. Tại đây, ông theo học danh sĩ Phạm Quý Thích, làm bạn với Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu...

    Năm 1825, ông đỗ cử nhân, năm sau đỗ tiến sĩ, được bổ làm quan ở Viện Hàn lâm (Huế). Năm 1827, ông thăng Tri phủ Bình Hòa (Khánh Hòa), rồi Lang trung Bộ Binh, duyệt quyển thi Đình. Năm 1830, ông làm tham hiệp Tuyên Quang, Thái Nguyên. Năm 1832, giữ chức Đốc học tỉnh Bắc Ninh.

    Thế rồi, chán cảnh quan trường, năm 33 tuổi, ông cáo bệnh về mở trường Trường Hồ Đình, dạy học ở thôn Tự Tháp ven bờ phía tây hồ Hoàn Kiếm, từ đó người đời gọi ông là ông Nghè Tự Tháp. Học trò ông nhiều người đỗ đạt cao, không chỉ trở thành những trọng thần trong triều Nguyễn mà còn là những văn thân, sĩ phu yêu nước thương dân, kiên quyết đứng vào phe chủ chiến chống quân xâm lược Pháp, điển hình như Hoàng giáp Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Tư Giản, Hoàng giáp Đốc học Hà Nội Lê Đình Diên, các Phó bảng Phạm Hy Lượng, Dương Danh Lập, các Cử nhân Vũ Duy Ninh và Ngô Văn Dạng...

    Ông là một nhà hoạt động văn hóa lỗi lạc trong nửa đầu thế kỷ XIX. Trước tình trạng sa sút của Hà Nội về văn hóa - xã hội (do chủ trương hạ thấp văn hóa Thăng Long, độc tôn văn hóa Huế), ông đã cùng các danh sĩ như các Tiến sĩ Nguyễn Văn Lý, Lê Duy Trung, Phó bảng Nguyễn Văn Siêu... tập hợp sĩ phu khởi xướng công cuộc chấn hưng văn hóa Thăng Long.

    Ngoài ra, ông còn chủ trì việc dựng Văn chỉ Thọ Xương (năm 1836) và sáng lập đền Ngọc Sơn (năm 1841), chủ yếu dùng làm những trụ sở hoạt động chấn hưng văn hóa Thăng Long. Đền Ngọc Sơn tương truyền là đài câu cá dưới thời Lê Trịnh, về sau trở thành ngôi chùa của gia đình một nhà nho quê ở Thường Tín; về sau, người này nhượng lại cho Hội Khuyến thiện do Vũ Tông Phan làm Hội trưởng. Từ đây, Ngọc Sơn được sửa thành đền, là trụ sở của Hội Khuyến thiện, một tổ chức của các sĩ phu danh tiếng đất Thăng Long lúc đó.

    Về sau triều đình vời ông ra, nhưng ông từ chối, được vua Tự Đức ban bốn chữ “Đào thục hậu tiến” (rèn giũa, giáo dục những điều thuần hậu, cao đẹp cho đời sau). Ông mất năm Tân Hợi (1851), thọ 51 tuổi.

    Vũ Tông Phan còn là một nhà thơ lớn của đất Thăng Long, là bạn xướng họa với Thần Siêu (Nguyễn Văn Siêu), Thánh Quát (Cao Bá Quát).

    Ông để lại khoảng 300-400 bài thơ, được người đời sau đánh giá là có nhiều suy ngẫm độc đáo, mang tính triết lý sâu sắc về thế sự. Thơ ông đầy trăn trở trước nhân tình thế thái và những định hướng hoạt động văn hóa, giáo dục, của cả một lớp người tâm huyết với di sản văn hiến của dân tộc, biết đồng tâm hiệp lực để gìn giữ và phát huy di sản quý giá ấy. Những tác phẩm tiêu biểu: Tô Khê tùy bút tập; Lỗ An di cảo thi tập; Thăng Long hoài cổ; Kiếm hồ thập vịnh…

    Thành phố Đà Nẵng đặt tên ông cho con đường dài 414m, rộng 5,5m, từ đường Vũ Đình Long đến đường Hồ Học Lãm, khu dân cư bắc và nam Phan Bá Phiến, thuộc phường Mân Thái, quận Sơn Trà, theo Nghị quyết số 80/2009/NQ/HĐND ngày 9-7-2009 về Đặt, đổi tên đường ở Đà Nẵng.

    Lê Gia Lộc

    baodanang.vn/channel/5433/201303/vu-tong-phan-tu-quan-ve-day-hoc-2225519/ 08/03/2013

     

    Vũ Tông Phan với dòng sông Tô của Hà Nội xưa

    Phố Vũ Tông Phan bên bờ sông Tô Lịch

    Cuối cùng thì Hà Nội cũng có phố Vũ Tông Phan. Đây là thành phố thứ tư đặt tên danh nhân này cho một đường phố, sau Đà Nẵng (2009), Hải Dương (2011) và TP Hồ Chí Minh (2011), dẫu đóng góp về văn hóa - giáo dục của ông diễn ra chủ yếu trên địa bàn Hà Nội mà trung tâm là một hình tam giác: trường Hồ đình do Tiến sĩ Vũ Tông Phan lập (dưới gốc đa trong khuôn viên Tòa soạn báo Nhân Dân ngày nay) – trường Phương đình Phó bảng Nguyễn văn Siêu dựng trên bờ sông Tô Lịch trong phố cổ (nay là phố Nguyễn Văn Siêu, khoảng các số nhà 12 - 14) – đền Ngọc Sơn do Hướng Thiện hội mà ông Nghè Phan rồi ông Bảng Siêu làm Hội trưởng, sáng lập năm 1841, khánh thành năm 1842, lập bia ghi sự tích năm 1843. Vùng địa linh này là trung tâm văn hóa mới của Hà Nội trong thế kỷ XIX, với 13 ngôi tư thục của các sĩ phu danh tiếng tập hợp quanh Hướng Thiện hội đền Ngọc Sơn, thay thế cho khu vực Văn Miếu - Quốc Tử Giám mà nhà Nguyễn, nhằm giảm uy thế Thăng Long để độc tôn Thần Kinh Huế, chủ trương để cho tàn tạ, chỉ còn chức năng thờ cúng các tiên hiền đạo Nho.

    Phố Vũ Tông Phan đặt ở quận Thanh Xuân - Hà Nội ngày nay là đoạn đường rộng 11 mét, dài 2 km, chạy ven bờ sông Tô Lịch khoảng từ Cầu Mới đến cầu Lủ, đối diện với phố Khương Đình và phố Kim Giang chạy ven bờ sông bên kia.

    Tuy gia tộc Vũ Tông Phan khoảng từ đầu thế kỷ XVIII đời nối đời ngụ cư ở thôn Tự Tháp phường Báo Thiên ven bờ tây Kiếm Hồ, nhưng bản thân ông Phan quả có nhiều duyên nợ với dòng sông Tô, nên ông mới đặt tên cho tập thơ đầu tay của mình là Tô Khê tùy bút tập, dẫu trong cả tập thơ không có bài nào về sông Tô Lịch.

    Trước hết, ở bờ đối diện phố Vũ Tông Phan bên này sông ngày nay, xưa có làng Kim Lũ, cổ danh Kẻ Lủ, là quê hương bản quán của người bạn thân thiết từ thuở thiếu thời Nguyễn Văn Siêu. Siêu cùng Phan, Trung (tức tiến sĩ khoa 1838 Lê Duy Trung, người làng Thượng Phúc, huyện Thường Tín) và Vinh (tức tiến sĩ khoa 1829 Ngô Thế Vinh, người làng Bái Dương, Nam Định) là “nhất nghiễn tịch chi giao” (lời thơ Ngô Thế Vinh), tức một chiếu bạn bút nghiên, cùng theo học danh sĩ triều Lê là ông Nghè Lập Trai Phạm Quý Thích, cũng là bác ruột của ông Phan về đằng họ mẹ. Là đồng môn, Siêu cũng là “đồng niên” với Phan, tức cùng đỗ cử nhân khoa thi Hương năm 1825, nhưng Phan ngay năm sau vào kinh đô Huế thi Hội, đỗ tiến sĩ rồi ra làm quan, Siêu ở nhà đóng cửa đọc sách, ba lần khước từ ra nhận chức ở bộ Lại.

    Chỉ đến khi Vũ Tông Phan chán cảnh quan trường thời “bá đạo” của họ Nguyễn, mới làm quan có 7 năm, 1833 đã từ quan về lại thôn Tự Tháp ven bờ tây hồ Hoàn Kiếm, “bổ mao tân” (tu bổ ngôi nhà lá thành mới) làm chỗ dạy học, Nguyễn Văn Siêu thường cùng bạn hữu thanh khí cũ qua lại “Kiếm Hồ u cư” (ngôi nhà u tịch bên hồ Gươm), tụ hội, “tầm nguyên phỏng cổ” (truy tìm cội nguồn học hỏi đạo cổ), luận bàn và “tái thư” (cũng như “minh thư”- đều là lời thơ của Nguyễn Văn Siêu về các cuộc tụ hội của họ) tức thề ước với nhau cùng chấn hưng văn hóa-giáo dục của Thăng Long nghìn năm văn hiến, lúc ấy đang suy đồi nghiêm trọng do chủ trương của triều Nguyễn  hạ thấp uy tín cố đô để độc tôn Thần Kinh Huế. Ngay năm sau, mùa xuân 1834, nhóm sĩ phu Hà thành này nhất loạt khai trường tại các phường thôn quanh hồ Hoàn Kiếm và trong khu phố cổ. Nguyễn Văn Siêu, từ trước đó đã chuyển nhà từ Lủ ra tồng Đồng Xuân phía bắc hồ Hoàn Kiếm, bèn dựng ở đây, vẫn trên bờ sông Tô Lịch, khoảng các số nhà 12 – 14 phố Nguyễn Văn Siêu ngày nay, một ngôi nhà hình vuông, đặt tên là Phương đình, để mở trường dạy học, bởi thế ông có biệt hiệu là “Phương Đình tiên sinh”.

    Một chiều cuối xuân 1834, Phương Đình tiên sinh mở tiệc khánh thành nhà dạy học Phương đình trên bờ sông Tô, “dụng đình vận chiêu thi” (lấy vần “đình” mời làm thơ). Tham dự có tiến sĩ Vũ Tông Phan, các cử nhân Trần Văn Vi, Cao Bá Quát, Lê Duy Trung, Diệp Xuân Huyên và Khoái Ông Nguyễn (chưa xác định được danh tính). Các bài xướng họa độc nhất vô nhị này vẫn còn lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội. Trong bữa tiệc ấy của các bậc danh sĩ Hà thành, Vũ Tông Phan được làm bài xướng vì ông là người duy nhất trong số họ đã đỗ tiến sĩ, lại từng trải qua chức Đốc học Bắc Ninh, tỉnh đến lúc ấy đứng đầu cả nước về số lượng tiến sĩ. Ngày xưa ấy hẳn vẫn là:

    Nước sông Tô vừa trong vừa mát,

    Em dừng chèo ghé sát thuyền anh…

    nên thi sĩ họ Vũ mới có thể mở đề rằng:

    Nhật chính tà tà, phong chính thanh

    Nhiễu tường trúc thụ chính thanh thanh…

    (Ánh chiều đúng lúc tà tà / gió đúng hồi tươi mát / Rặng trúc quanh tường đúng độ ngắt xanh)

    Vị tiến sĩ nguyên Đốc học không ngẫu nhiên láy đi láy lại ba lần chữ “chính”, vốn vô cùng quan trọng với Nho gia, mà nhóm Phan - Siêu cũng vừa nhất trí thề ước tại các cuộc tụ hội luận bàn ở Hồ đình và Phương đình về “chính nhân tâm” (làm cho nhân tâm đúng đắn) “chính phong tục” (làm cho phong tục đúng đắn) và “chính học thuật”  (làm cho sự học đúng đắn). Chữ “chính” hợp với chữ “phương” thành “PHƯƠNG CHÍNH” – phương châm tư tưởng và hành động của quân tử: NGAY THẲNG, CHÍNH TRỰC. Bởi thế, trong một bài họa đáp tại bữa tiệc khai trường Phương đình trên bờ sông Tô ấy, Nguyễn Văn Siêu đã nguyện cùng các đồng chí:

    Cố tri viên thị trí,

    Nguyện thủ PHƯƠNG vi hình.

    (Vẫn biết tròn là khôn ngoan / Xin nguyện giữ VUÔNG làm khuôn mẫu )

    Sông Tô Lịch gắn bó với họ về tình cảm, tư tưởng và sự nghiệp chung như  vậy cho nên năm 1838, khi Nguyễn Văn Siêu buộc phải ứng thí, chỉ được cho đỗ Phó bảng, dẫu “văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán” (văn mà như Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát thì văn chương thời Tiền Hán bên Trung Hoa chẳng còn là cái gì), và bị triệu vào Huế làm quan, Vũ Tông Phan trong bài thơ tiễn, đã khắc ghi với bạn tâm đắc:

    Thử biệt cư hành tâm chiếu xứ

    Tô giang thu nguyệt, Kiếm hồ tôn.

    Xin tạm dịch:

    Biệt ly soi tấc dạ này

    Trăng thu Tô Lịch, men say Kiếm Hồ.

    Nhưng không chỉ có vậy. Trong tâm thức của Vũ Tông Phan, sông Tô cùng núi Nùng được coi là biểu tượng của vùng đất kinh kỳ Thăng Long xưa, cũng như núi Tản sông Đà là biểu tượng của cố đô Phong Châu, núi Ngự sông Hương là biểu tượng của đất Thần Kinh Huế.

    Thăng Long hoài cổ thập tứ thủ là tập thơ từng được lưu hành rộng rãi ở đời sau khi ông Nghè Tự Tháp tạ thế, nhờ công lao “điểm duyệt” của một đồng chí tâm đắc khác của ông trong sự nghiệp chấn hưng văn hóa-giáo dục Thăng Long là tiến sĩ Nguyễn Văn Lý, người làng Đông Tác - Kim Liên Hà Nội. Tập thơ ấy mở đầu bằng bài Đề Tô giang (Vịnh sông Tô Lịch). Trong Tự Tháp Vũ tiên sinh thi tập, bài thơ này có đầu đề thể hiện rõ hơn tư tưởng của tác giả: Tây xuất Tô giang đăng Lí thành cảm tác (Ra sông Tô từ cửa Tây, lên thành nhà Lý cảm tác). Thi sĩ họ Vũ khẳng định công lao lập đô Thăng Long của Lý Thái Tổ là trường tồn cùng hình ảnh sừng sững của tòa thành nhà Lý trên vùng địa linh Tô Lịch mà đầu thế kỷ XIX ông còn được chứng kiến, chỉ có La thành của Cao Biền là hoang phế mà thôi:

                                        …

                                                    Lý khuyết La thành tê

                                                    Tô giang vi nhất phái

                                                    Lý khuyết cổ thành lập

                                                    La thành hoang nhất đái

    Sở văn giả bất kiến

    Sở kiến giả trường tại

    Dữ ngô nhất biệt hề

    Kỷ hà nhi thiên tải …

    Xin tạm dịch:

    Ngoài cửa cung nhà Lý,

    Về phía tây La thành,

    Dòng Tô vẫn vây quanh

    Cổ thành còn sừng sững,

    Riêng thành La hoang tàn.

    Trước chỉ nghe chưa thấy,

    Nay thấy quả trường tồn,

    Dù cùng ta cách biệt

    Mấy mà nghìn năm tròn…

    “Cổ thành” là đoạn đường Hoàng Hoa Thám và đường Bưởi ngày nay mà trên bản đồ Hà Nội 1873 có ghi hai Hán tự “Lý thành”, người Pháp gọi là “digue Parreau” (đê Pa-rô).

    Ngày nay nhờ ý tưởng sáng tạo của KTS trẻ tài năng Hoàng Thúc Hào, một đoạn tường thành cổ nhà Lý đã được bắt đầu phục dựng nhân dịp chuẩn bị Đại lễ 1000 năm Thăng Long: đứng ở ngã ba đầu đường Hoàng Quốc Việt nhìn lên, vẫn có thể thấy mặt đường Bưởi mới được kè lại, cao hơn mặt nước sông Tô Lịch chảy bên dưới đến 3m. Tiếc rằng do những nguyên nhân khách quan và chủ quan nào đó, công trình bị bỏ dở dang, không thì đã có thể lập bia khắc bài thơ của tiến sĩ Vũ Tông Phan, sáng tác gần hai trăm năm trước, ghi nhận một di tích cổ nữa của Thăng Long 1000 năm văn hiến.

    Vũ Thế Khôi

    Vanhoanghean.com.vn

    Tìm kiếm

    Lượt truy cập

    • Tổng truy cập57,093,728

    Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam

       

      Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.

      *Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...

    Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.

      WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)

      Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.

      The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.

      Enjoy life, enjoy Arita experience!