Search

Access times

  • Total visits57,958,755

PARTNER

    Green Leaf Vietnam Trading Service Co., Ltd.

    Is the leading passenger transport service company in Vietnam! In 2019, Green Leaf VN has more than 500 passenger cars from 4 seats to 50 seats, new life, reaching 150 thousand arrivals. The rate of successful and punctual pickup is 99.97%.

    * Japanese customer care staff always create peace of mind and trust for customers ...

Literary critique theory

Tính cách Việt Nam trong thơ Nôm luật Đường (8-2)

Lê Chí Dũng

  • Monday, 00:30 Day 21/06/2010
  • Trong tình yêu khác giới của mọi thời đại sự cả nể lẫn nhau của cô gái và chàng trai dẫn tới “mảnh tình một khối” thường xảy ra và điều đó cũ hơn trái đất. Cái mới là ở chỗ cả Hồ Xuân Hương, cả cô gái trong bài thơ Không chồng mà chửa­ – hiên ngang thách thức với dư luận, với “lẽ phải thông thường”:

    Quản bao nhiêu miệng thế lời chênh lệch,

    Không có, nhưng mà có, mới ngoan.(87).

    Ham sống cuộc sống tự nhiên, yêu cuộc sống tự nhiên và tranh đấu cho cuộc sống tự nhiên, Hồ Xuân Hương lột mặt nạ những kẻ đạo đức giả, những thói đạo đức giả của cánh đàn ông đối với cái ấy nơi đàn bà. Nữ sĩ không thương tiếc đả kích trước hết bọn vua chúa, bọn hiền nhân, quân tử –những kẻ đạo đức giả nhất, những kẻ coi đạo đức giả là mánh lới sống của chúng và chúng truyền đạo đức giả vào toàn bộ cuộc sống tinh thần  của xã hội thời trung đại. Đòn đả kích có hiệu quả mạnh mẽ nhất cuả Hồ Xuân Hương vào bọn đạo đức giả, thói đạo đức giả là phơi bày sự thật  cái “quan hệ” của bọn chúng với chính cái ấy ở đàn bà:

    Mười bảy hay mười tám đây,

    Cho ta yêu dấu chẳng rời tay.

    Mỏng dày chừng ấy, chành ba góc,

    Rộng hẹp dường nào, cắm một cây.

    Càng nóng bao nhiêu thời càng mát,

    Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày.

    Hồng hồng má phấn yêu vì cậy,

    Chúa dấu vua yêu một cái này.

    (Cái quạt, thủ 1)

    Hồ Xuân Hương đã chọn đúng chỗ nhạy cảm nhất của bọn đạo đức giả, thói đạo đức giả để đả kích, khiến cho chúng không còn đường lẩn tránh, buộc chúng phải giương mắt “chịu trận”:

    Chành ra ba góc da còn thiếu,

    Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.

    Mát mặt anh hùng khi tắt gió,

    Che đầu quân tử lúc sa mưa.

    Nâng niu muốn hỏi người trong trướng,

    Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?

    (Cái quạt, thủ 2)

    Viết những dòng thơ dưới đây, Hồ Xuân Hương cho độc giả thấy bà hiểu sự thô bạo, sự ham hố tình dục của cánh đàn ông như thế nào:

    Của em bưng bít vẫn bùi ngùi,

    Nó thủng vì chưng kẻ nặng dùi.

    Ngày vắng đập tung dăm bảy chiếc,

    Đêm thanh đánh lộn một đôi hồi.

    Khi giang thẳng cánh bù khi cúi,

    Chiếu đứng không thôi lại chiếu ngồi.

    Nhắn nhủ ai về thương ấy với,

    Thịt da ai cũng thế mà thôi.

    (Trống thủng)

    Trong thơ Hồ Xuân Hương không hiện diện những câu thơ mô tả sự hòa hợp của tình yêu và tình dục giữa đàn ông và đàn bà; luôn thấy trong thơ bà sự thiệt thòi, sự chịu đựng, sự hi sinh cho chồng, cho con ở người phụ nữ:

    Hỡi chị em ơi có biết không?

    Một bên con khóc một bên chồng.

    Bố cu lổm ngổm bò trên bụng,

    Thằng bé hu hơ khóc dưới hông.(88)

    Tất cả những là thu với vén,

    Vội vàng nào những bống cùng bông.(89)

    Chồng con cái nợ là như thế,

    Hỡi chị em ơi có biết không ?

    (Cái nợ chồng con)

    Đọc thơ Nôm của Hồ Xuân Hương, rồi xem thơ chữ Hán của bà, thấy rõ đối với nữ sĩ này hạnh phúc thật sự trong quan hệ giữa đàn bà và đàn ông luôn luôn chỉ là điều ước. Cuộc sống – xã hội đương thời chẳng có chỗ cho điều ước ấy biến thành sự thật, “đau đớn thay phận đàn bà, lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung!”

    Trong thơ mình, Hồ Xuân Hương mỉa mai cuộc sống trái với tự nhiên, coi cuộc sống ấy không phải là cuộc sống:

    Mười hai bà mụ ghét chi nhau,

    Đem cái xuân tình vứt bỏ đâu?

    Rúc rích thây cha con chuột nhắt, (90)

    Vo ve mặc mẹ cái ong bầu.(91)

    Đố ai biết đó vông hay trốc, (92)

    Còn kẻ nào hay cuống với đầu. (93)

    Đã thế thì thôi, thôi mặc thế,

    Trăm năm càng khỏi tiếng nương dâu. (94)

    (Quan thị)

    Văn học dân gian đã từng phơi bày trước công luận mặt trái (95) của giới thầy tu theo Phật giáo. Đối với Hồ Xuân Hương thì giới ấy chẳng có mặt phải và do đó, cũng không có mặt trái;  chỉ có một mặt là không sống theo tự nhiên. Nữ sĩ công khai bày tỏ sự ác cảm của mình  dành cho toàn bộ giới ấy:

    Nào nón tu lờ, nào mũ thâm,

    Đi đâu chẳng đội để ong châm?

    Đầu sư há phải gì… bà cốt,

    Bá ngọ con ong bé cái nhầm.

    (Sư bị ong châm)

    Giới ấy, trong thơ Hồ Xuân Hương, sống trái tự nhiên tới hai lần : xuống tóc, không lấy vợ, sinh con là sống trái tự nhiên; đã là sư , phải diệt dục, nhưng vẫn cứ “nợ tình đeo”, cũng là sống trái tự nhiên so với giáo lý của Phật giáo. Cho nên nữ sĩ tung hê sạch sành sanh những tín niệm thông thường của người đời về giới ấy:

    Chẳng phải Ngô, chẳng phải ta,

    Đầu thì trọc lốc, áo không tà.

    Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm,

    Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà.

    Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe,

    Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha.

    Tu lâu có lẽ lên sư cụ,

    Ngất nghểu tòa sen nọ đó mà.

    (Sư hổ mang)

    Đọc thơ Hồ Xuân Hương,biết bà đi nhiều, dấu chân của nữ sĩ đặt tới nhiều chùa, quán, nhưng với tư cách là một  du khách ngoạn cảnh, chứ không phải là tín đồ của Phật giáo hay Đạo giáo; chùa, quán đối với Hồ Xuân Hương chẳng có gì là thiêng liêng, mà cũng không có gì nên thơ, chỉ rặt những cảnh nhàm chán, tẻ ngắt, ngưng đọng.

    Chùa Quán Sứ

    Quán sứ sao mà cảnh vắng teo,

    Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo?

    Chày kình , tiểu để suông không đấm,

    Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo.

    Sáng banh không kẻ khua tang mít,

    Trưa trật nào ai móc kẽ rêu.

    Cha kiếp đường tu sao lắt léo,

    Cảnh buồn thêm ngán nợ tình đeo.

    Quán Khánh

    Đứng chéo trông theo cảnh hắt heo,

    Đường đi thiên thẹo quán cheo leo.

    Lợp lều mái cỏ tranh xơ xác,

    So kẽ kèo tre đối khẳng kheo.

    Ba chạc cây xanh hình uốn éo,

    Một dòng nước biếc cảnh leo teo.

    Đến hang Thánh Hóa(96) được dân gian truyền tụng là Từ Đạo Hạnh đã hóa ở đây thì cũng thế thôi:

    Lườn đá cỏ leo sờ rậm rạp,

    Lách khe nước rỉ mó lam nham.

    Một sư đầu trọc ngồi khua mõ,

    Hai tiểu lưng tròn đứng giữa am.

    Bực mình, Hồ Xuân Hương chửi đổng cho bõ tức:

    Cha kiếp  đường tu sao lắt léo,

    Cảnh buồn thêm ngán nợ tình đeo !

    (Chùa Quán Sứ)

    Hồ Xuân Hương văng tục  bằng những câu nói lái:

    Cái kiếp tu hành nặng đá đeo,

    Vị gì một chút tẻo tèo teo.

    Buồm từ cũng muốn về Tây Trúc,

    Trái gió cho nên phải lộn lèo.

    (Cái kiếp tu hành)

    Quán Sứ sao mà cảnh vắng teo,

    Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo?

    Chày kình, tiểu để suông không đấm,

    Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo.

    (Chùa Quán Sứ)

    Thú vui quên cả niềm lo cũ,

    Kìa cái diều ai nó lộn lèo.

    (Quán Khánh)

    Trong thơ Hồ Xuân Hương bọn nho sĩ là một lũ dốt nát, dốt chữ, dốt thơ, nhưng hay khoe chữ, khoe thơ

    Phường lòi tói

    Dắt díu nhau lên đến cửa chiền,

    Cũng đòi học nói, nói không nên.

    Ai về nhắn bảo phường tòi lói,

    Muốn sống đem vôi quét trả đền.

    Lũ ngẩn ngơ

    Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ?

    Lại đây cho chị dạy làm thơ.

    Ong non ngứa nọc châm hoa rữa,

    Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa.

    Thế là Hồ Xuân Hương  thị tài, thị tài chữ nghĩa, thị tài làm thơ, và

    Ghé mắt trông lên thấy bảng treo,

    Kìa đền thái thú đứng cheo leo.

    Ví đây đổi phận làm trai được,

    Thì sự anh hùng há bấy nhiêu !

    (Đền Sầm Nghi Đống)

    Hồ Xuân Hương thị tài kinh bang tế thế.

    Như vậy quan niệm của Hồ Xuân Hương về con người, về cuộc sống, về sự nghiệp  trong thơ của nữ sĩ không một tí tẻo tèo teo gặp gỡ với con người, cuộc sống và sự nghiệp của bao kẻ bon chen , của thời đại ấy. Hồ Xuân Hương bất mãn với toàn bộ những biểu hiện  của thời đại ấy.

    Trong thơ Hồ Xuân Hương, bạn đọc cảm nhận được thân phận người đàn bà như quả mít, như ốc nhồi, như bánh trôi “rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”(97) chịu thương chịu khó vì chồng, vì con và chịu đựng sự hành hạ của vua, chúa, của hiền nhân, quân tử, của đàn ông; thân phận như thế khiến cho đàn bà không được làm người, mà chỉ là vật sở hữu của kẻ khác giới:

    Thân em vừa trắng lại vừa tròn,

    Bảy nổi ba chìm với nước non.

    Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,

     (Bánh trôi)

    Thân em như quả mít trên cây,

    Vỏ nó xù xì, múi nó dày.

    Quân tử có thương thì đóng cọc,

     

    (Quả mít)

    Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi,

    Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi.

    Quân tử có thương thì bóc yếm.

     (Ốc nhồi)

    Ở đây Hồ Xuân Hương đã hóa thân vào hình tượng nhân vật của mình . Đó là chỗ không chỉ phân biệt nữ sĩ này với nữ sĩ Bà huyện Thanh Quan), mà còn phân biệt Hồ Xuân Hương với Đoàn Thị Điểm, công chúa Lê Ngọc Hân.

    Thế nhưng, trong thơ Hồ Xuân Hương còn hiện diện trực tiếp cái tôi trữ tình của nữ sĩ. Cái tôi trữ tình ấy bộc lộ trong những bài thơ : Lũ ngẩn ngơ; Đền Sầm Nghi Đống; Dỗ người đàn bà khóc chồng; Bỡn bà lang khóc chồng; Khóc tổng Cóc; Khóc ông phủ Vĩnh Tường; Miếng trầu; Tự tình, thủ 1; Tự tình, thủ 2; Tự tình, thủ 3. Đây là cái tôi trữ tình phong phú, đa dạng, phức tạp. Cái tôi ấy tự tin, kiêu hãnh, thị tài, có khả năng che đỡ, an ủi người khác được thể hiện rõ nét ở những bài: Lũ ngẩn ngơ; Đền Sầm Nghi Đống; Dỗ người đàn bà khóc chồng; Bỡn bà lang khóc chồng.  Ở bài Khóc tổng Cóc Hồ Xuân Hương dùng những lời gây cười để che giấu sự đau đớn như có muối xát vào gan ruột mình, bởi bà phải rời bỏ tổ ấm  gia đình:

    Tổng Cóc ơi! Tổng Cóc ơi !

    Thiếp bén duyên chàng có thế thôi.

    Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé,

    Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi !

    Thế nhưng, nơi bài Khóc ông phủ Vĩnh Tường nữ sĩ lại chân thành thể hiện những tình cảm của bà đối với người chồng đồng thời là người bạn văn chương của mình  vừa qua đời; tuy nhiên, Hồ Xuân Hương “ai nhi bất thương”(98). Bài thơ Miếng trầu

    Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,

    Này của Xuân Hương mới quệt rồi.

    Có phải duyên nhau thì thắm lại,

    Đừng xanh như lá bạc như vôi !

    cho độc giả thấy một Hồ Xuân Hương như co mình lại, khiêm nhường, thậm chí thiếu tự tin sau bao nhiêu lỡ làng về duyên phận, chỉ còn có thể mong đợi sự lành của duyên phận trong mớ bòng bong may rủi của thế thái nhân tình. Ở ba bài Tự tình  Hồ Xuân Hương thể hiện ba tình huống khác nhau của tâm hồn nữ sĩ. Cảm nhận thân phận của mình  như chiếc thuyền bằng gỗ bách “lưng khoang tình nghĩa dường lai láng; nửa mạn phong ba luống bập bềnh” đang lênh đênh giữa dòng nước gặp gió to sóng lớn; cảm nhận như vậy của Hồ Xuân Hương đầy ắp trong bốn câu đầu của Tự tình, thủ 1.  Ơi bốn câu sau của bài thơ nữ sĩ bộc lộ cái tâm trạng nước đôi của mình : vừa thây kệ duyên phận, vừa nuôi hi vọng, dù mong manh, vào duyên phận… Sự não nề trong lòng thi nhân ám ảnh không gian đêm được Hồ Xuân Hương mô tả rõ nét ở Tự tình , thủ 2

    Oán hận  trông ra khắp mọi chòm.

    Mõ thảm không khua mà cũng cốc,

    Chuông sầu không đánh cớ sao om?

    Nữ sĩ đối mặt với không gian đêm. Tiếng mõ, tiếng chuông thi nhân nói trong bài thơ là tiếng lòng  của Hồ Xuân Hương ; bà nghe rõ mồn một tiếng lòng ấy và,

    Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ,

    Sau giận  vì duyên để mõm mòm.

    Hồ Xuân Hương luôn luôn quan thiết  đến duyên đôi lứa. Người đàn bà ấy thách thức:

    Tài tử văn nhân ai đó tá ?

    Thân này đâu đã chịu già tom.

     

    Ở Tự tình, thủ 3 ta thấy Hồ Xuân Hương trong tình huống:

    Canh khuya văng vẳng tiếng canh dồn,

    Trơ cái hồng nhan với nước non.

    Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,

    Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.

    Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,

    Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.

    Nữ thi sĩ đối mặt với nước non, với thiên nhiên – bản chất của người, vào lúc đêm đã rất khuya. Trơ cái hồng nhan bạc phận trong cảnh vật chẳng hứa hẹn điều gì tốt lành. Thế nhưng, Hồ Xuân Hương  vẫn kết thúc bài thơ của mình  có hậu:

    Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

    Mảnh tình san sẻ tí con con !

    Đọc hai câu thơ ấy độc giả có thể nhớ đến câu thơ của Sầm Tham: “Xuân lai hoàn phát cựu thời hoa” (Xuân đến làm nở trở lại hoa ngày trước). Cái lẽ vãng phục luôn luôn hiện diện trong thơ của Hồ Xuân Hương. Và đây là cái lẽ vãng phục của tình duyên, của ‘khối tình cọ mãi với non sông” (Đá ông chồng bà chồng). Không bao giờ tắt, không bao giờ nguội lạnh trong thơ bà lòng ham sống, sự khao khát hưởng thụ đầy đủ những thú vui tạo hóa phú cho người.

    Bởi vậy,Hồ Xuân Hương không chịu bó tay trước sự nghiệt ngã của cuộc sống đối với mình. Bà dùng thơ để bù đắp cho những thiếu thốn của mình  trong đời sống thực về quan hệ ái ân giữa đàn bà và đàn ông. Thơ vịnh cảnh, vịnh vật của Hồ Xuân Hương trở nên khác thường: lệch chuẩn của thơ vịnh cảnh, vịnh vật trong văn học thành văn thời trung đại.

    Hang Cắc Cớ

    Trời đất sinh ra đá một chòm,

    Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom,

    Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,

    Luồng gió thông reo vỗ phập phòm.

    Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm,

    Con đường vô ngạn tối om om.

    Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc,

    Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm.

    Đá ông chồng bà chồng

    Khéo khéo bày trò tạo hóa công,

    Ông chồng đã vậy lại bà chồng.

    Tầng trên điểm tuyết phơ đầu bạc,

    Thớt dưới sương pha đượm má hồng.

    Gan nghĩa dãi ra cùng nhật nguyệt,

    Khối tình cọ mãi với non sông.

    Đá kia còn biết xuân già dặn,

    Chả trách người ta lúc trẻ trung.

    Con mắt thơ Hồ Xuân Hương nhìn vào những cảnh những vật như thế , phát hiện những gì có thể liên tưởng đến nõn và nường, sự giao phối của nõn với nường. Nhiều bài thơ loại này của Hồ Xuân Hương thật khoẻ khoắn, phơi phới lòng yêu đời, chẳng hạn bài:

    Đánh đu

    Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,

    Người thì lên đánh kẻ ngồi trông.

    Trai đu gối hạc khom khom cật,

    Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.

    Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,

    Hai hàng chân ngọc duỗi song song.

    Chơi xuân có biết xuân chăng tá,

    Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không!

    Và , trong bài thơ sau đây Hồ Xuân Hương vịnh dệt cửi hay nữ sĩ ngợi ca, khoái chá cái tình yêu khi nó đạt tới sự tót vời?

    Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau,

    Con cò mấp máy suốt đêm thâu.

    Hai chân đạp xuống năng năng nhắc,

    Một suốt đâm ngang thích thích mau.

    Rộng hẹp nhỏ to vừa vặn cả,

    Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau.

    Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ,

    Chờ đến ba thu mới giãi màu.

    Trong văn học  dân gian Việt Nam có những câu đố được gọi là đố tục giảng thanh . Có thể gọi những bài thơ như trên của Hồ Xuân Hương là những câu đố đố thanh giảng tục chăng? Có nhà nghiên cứu văn học  cho rằng viết những bài thơ như thế, Hồ Xuân Hương “đã phục nguyên lại ý thiêng của cái tục, bởi vì tự cội nguồn trong tư duy bất nhị nguyên, thiêng là tục, tục là thiêng”.(99)

    Viết những bài thơ như thế, Hồ Xuân Hương sử dụng nhiều và sử dụng một cách tài tình , độc đáo những từ láy của tiếng Việt:

    Lẽo đẽo chiếc gàu ba góc chụm,

    Lênh đênh  một ruộng bốn bờ be.

    Xì xòm  đáy nước mình nghiêng ngửa,

    Nhấp nhổm  bên nghềnh đít vắt ve.

    (Tát nước)

    Con cò  mấp máy suốt đêm thâu.

    Hai chân đạp xuống năng năng nhắc,

    Một suốt đâm ngang thích thích  mau.

    Rộng hẹp nhỏ to  vừa vặn  cả,

    Ngắn dài  khuôn khổ  cũng như nhau.

    (Dệt cửi)

    Gió giật sườn non khua lắc cắc,

    Sóng dồn mặt nước vỗ long bong.

    (Kẽm Trống)

    Đứng chéo trông theo cảnh hắt heo,

    Đường đi thiên thẹo quán cheo leo.

    Lợp lều mái cỏ tranh xơ xác,

    So kẽ kèo tre đốt khẳng kheo.

    Ba chạc cây xanh hình uốn éo,

    Một dòng nước biếc cảnh  leo teo.

    (Quán Khánh)

    Bày đặt kìa ai  khéo khéo  phòm,

    Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom.

    (Động Hương Tích)

    Hồ Xuân Hương đào sâu vào văn hoá dân gian, văn hoá dân tộc Việt Nam và bà đã gặp văn hoá nhân loại. Rabindranath Tagore (1841- 1941) – nhà thơ châu Á đầu tiên nhận giải Nobel về văn chương (1913) – rất có cảm tình với thơ Hồ Xuân Hương(100); gần đây, nhà thơ Pháp nổi tiếng ở châu Âu – Jean Ristal – trong lời tựa bản dịch thơ Hồ Xuân Hương sang tiếng Pháp đã đánh giá bà là “một trong những tên tuổi lớn của văn học  Việt Nam và không chút nghi ngờ, là một trong những nữ sĩ hàng đầu của châu Á” (101).

    (còn tiếp)

    Nguồn: Tính cách Việt Nam trong thơ Nôm luật Đường. Khảo luận của Lê Chí Dũng. NXB Văn học, 2001.

    www.trieuxuan.info

    Related posts

    Search

    Access times

    • Total visits57,958,756

    PARTNER

      Green Leaf Vietnam Trading Service Co., Ltd.

      Is the leading passenger transport service company in Vietnam! In 2019, Green Leaf VN has more than 500 passenger cars from 4 seats to 50 seats, new life, reaching 150 thousand arrivals. The rate of successful and punctual pickup is 99.97%.

      * Japanese customer care staff always create peace of mind and trust for customers ...