Search
Access times
- Total visits58,306,830
PARTNER
Green Leaf Vietnam Trading Service Co., Ltd.
Is the leading passenger transport service company in Vietnam! In 2019, Green Leaf VN has more than 500 passenger cars from 4 seats to 50 seats, new life, reaching 150 thousand arrivals. The rate of successful and punctual pickup is 99.97%.
* Japanese customer care staff always create peace of mind and trust for customers ...
Most read
- Phạm Hổ - Thơ viết cho nhi đồng
- Người của giang hồ (5): Lâm Chín ngón
- Thuật quan sát người (4)
- Người của giang hồ (11): Hải bánh
- Người của giang hồ (8): Huỳnh Tỳ
- Thuật quan sát người (2)
- Hoàng hôn của những thần tượng
- Vài nét về tục Cúng Mụ, đầy tháng, thôi nôi
- Vài tư liệu về Tục thờ Thánh Mẫu
- Chùm thơ về Tây Nguyên
Articles
Lăng Bình Giang Quận công Võ Di Nguy
Những ngôi mộ của các danh thần triều Nguyễn nằm lặng lẽ tại đất Sài Gòn. Trong số những ngôi mộ cổ có tuổi đời trên dưới 200 năm đó, một số được gìn giữ, thờ cúng, nhưng có cái đã thành phế tích.
Đệ nhất công thần
Từ đường Phan Đình Phùng rẽ vào Cô Giang (gần ngã tư Phú Nhuận), ngay đầu đường có tấm biển lớn treo trên cao như cổng chào, ghi hàng chữ “Đền Phú Trung Bình Giang Quận công Võ Di Nguy”.
Trong các cận thần của Nguyễn Ánh (vua Gia Long) thì Võ Di Nguy là người phò tá sớm nhất, ông theo giúp Định Vương Nguyễn Phúc Thuần (1751 - 1777, chú ruột của Nguyễn Ánh), rồi theo Nguyễn Ánh chống Tây Sơn và cũng tử trận sớm hơn nhiều công thần khác (ông mất ngày 27.2.1801) khi cuộc chiến với Tây Sơn bước vào giai đoạn khốc liệt nhất, trước khi Nguyễn Ánh thống nhất đất nước, lên ngôi vua (1802). Thi hài Võ Di Nguy được chuyển về Gia Định. Chi phí cho tang lễ rất lớn.
Năm Gia Long thứ sáu (1807), Võ Di Nguy được truy phong lên hàng nhất phẩm, được sắc phong “Tả Nam công thần đặc tân thượng trụ quốc thiếu bảo quận công”.
Ngôi mộ của ông (số 19 đường Cô Giang) từ khi được an táng đến nay hơn 214 năm mà vẫn giữ được nét uy nghi, đường bệ của bậc đệ nhất công thần, đồng thời tiêu biểu cho nghệ thuật xây cất lăng mộ cổ ở Nam bộ. Do đó, Bộ VH-TT đã ra quyết định công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia (số 43-VH/QĐ ký ngày 7.1.1993).
Ngôi mộ bề thế
Cụ thủ từ Lê Văn Thành (80 tuổi) nói với chúng tôi: “Tôi sống ở Sài Gòn đã từng này tuổi nhưng chưa thấy phần mộ nào bề thế như mộ của ông, kể cả mộ của Tả quân Lê Văn Duyệt”. Mà thật, mộ được đắp bằng ô dước, nhô khỏi mặt đất khoảng 0,25 m, hình chữ nhật với kích thước 2 x 1,6 m.
Cách đầu mộ khoảng 1,8 m là bức bình phong hậu bằng ô dước hình chữ nhật, hai bên đắp phù điêu rồng chầu: đầu ôm cột có đính tòa sen, đuôi quấn chân bình phong (phong cách Angkor); ở giữa là 2 ô bài vị khắc chữ Hán: ô bên phải nói về công trạng của Võ Di Nguy, bên trái nói về thân thế phu nhân Võ Di Nguy. Tuy nhiên hầu hết chữ đã phai mờ rất khó đọc.
Ông Lê Minh Hoàng (Trưởng ban Quản lý lăng Võ Di Nguy), bắc thang cho tôi leo lên mái sau của ngôi đền để chụp toàn cảnh khu mộ gồm phần tiền mộ và phần mộ (17,5 x 7 m). Dọc bờ tường bao quanh khu mộ kết nối liền nhau bởi nhiều bức phù điêu hình chữ nhật, chạm nổi các loại hình: bình hoa, chim trĩ, chim công, hoa mẫu đơn, tùng lộc, tứ linh, cúc trúc tùng mai...
Khu tiền mộ (sân trước mộ) được ngăn bởi hai bờ tường, chừa cổng vào ở giữa. Đặc biệt, sinh thời Võ Di Nguy là danh tướng thủy quân (tước Bình Giang Quận công) nên trên mỗi bờ tường có tượng con rái cá. Một hồ nước nhỏ gắn với bức bình phong cao khoảng 1,8 m hai bên có tượng hai con sư tử mắt lồi, đuôi xòe, nhe răng ôm lấy bình phong có chiều ngang 3 m. Mặt trong bình phong chạm hình “vân tùng lộc” (mây, cây tùng và hươu nai), mặt ngoài bình phong rong rêu đã phủ kín.
Đặc biệt, giữa sân phía trước mộ có tượng 2 con lân nhỏ rất đẹp, xứng đáng được liệt vào “tượng linh vật thuần Việt”, đó là chưa kể trên 2 cột trụ vuông có đặt 2 con lân lớn cũng uy mãnh và đẹp không kém... Trước mộ có bệ thờ bằng ô dước dài 1,4 m, ngang 0,6 m, cao xấp xỉ với mặt mộ. Trên bàn thờ đặt lư gốm to. Chân bệ thờ hình bàn quỳ kê trên 4 con kỳ lân ở 4 góc.
Ngoài bờ tường phần mộ Võ Di Nguy còn có 4 ngôi mộ khác. Bên phải là mộ bà Lê Thị Mười (phu nhân Võ tướng công) và mộ người con trai thứ Võ Di Thiện. Bên trái là mộ người con dâu tên Triệu Thị Đào và một mộ phần vô danh. Cạnh 2 mộ này có một giếng nước cổ.
Phía trước khu mộ là đền thờ do Phú Trung Quý tế hội điều hành. Ông Lê Minh Hoàng cho biết ngoài những vật dụng, linh vật thường thấy trong các đình, đền Nam bộ (tượng bạch mã, cặp hạc đứng trên rùa, lọng, thập bát binh khí...), đền còn lưu giữ 2 sắc phong của vua Minh Mạng năm thứ 13 (1832) đề ngày 11 tháng giêng âm lịch và ngày 14 tháng 12 âm lịch, truy phong tước phẩm, ghi trên lụa vàng, đựng trong hộp gỗ cuộn vải đỏ được đặt trong khám thờ. Đặc biệt, vì Võ Di Nguy là tướng thủy binh nên trong các vật thờ cũng có một thuyền rồng.
Võ Di Nguy sinh năm 1745, là người huyện Phú Vang, phủ Thừa Thiên (nay là tỉnh Thừa Thiên-Huế). Năm 1775, ông cùng với cai đội Tô Văn Đoài cầm đầu một toán 200 người tìm vào Gia Định hợp sức cùng Nguyễn Ánh. Từ đó, ông trở thành thuộc tướng tin cẩn, được chúa giao phó trông coi thủy binh và cả việc đóng các chiến thuyền (cùng với Châu Văn Tiếp, Tôn Thất Cốc).
Năm Canh Thân (1800), tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu vây thành Bình Định (do Võ Tánh trấn thủ), ông cùng Nguyễn Ánh đem quân ra ứng cứu. Khi đến vùng Cù Mông, ông được lệnh bảo vệ Vũng Trích (Phú Yên). Rồi mùa xuân năm Tân Dậu (1801), đạo quân của Nguyễn Ánh tiến vào Thị Nại với các bó củi đốt tấn công chiến thuyền của quân Tây Sơn. Võ Di Nguy ngồi trên chiến thuyền lớn đang chỉ huy trận đánh bị trúng đạn đại bác tử nạn.
Hà Đình Nguyên/thanhnien.com.vn
Mộ các danh thần ở Sài Gòn: Lăng Ông ở Bà Chiểu
Sở dĩ phải viết rõ như vậy vì vẫn có nhiều người gốc Sài Gòn chính hiệu nhưng lại nghĩ 'Lăng Ông Bà Chiểu' là nơi chôn cất của đôi vợ chồng (ông bà) tên Chiểu, mà không biết đó là lăng mộ của Thượng Quốc công Tả quân Lê Văn Duyệt (tức Lăng Ông) được an táng tại vùng đất mang tên Bà Chiểu.
Trong tất cả các lăng mộ ở khắp vùng Sài Gòn - Gia Định, chưa có lăng mộ nào so được với lăng mộ Lê Văn Duyệt về mặt bề thế, kỳ vĩ cũng như về mặt tâm linh, được nhân dân sùng bái, nhang khói mỗi ngày…
Biểu tượng Sài Gòn một thuở
Trước năm 1975, hình ảnh cổng Tam quan với hai cây thốt nốt của Lăng Ông đã từng được chọn là biểu tượng của Sài Gòn (và miền nam) cùng với tháp Phước Duyên của chùa Thiên Mụ (biểu tượng cho Huế và miền trung), chùa Một Cột - chùa Diên Hựu (biểu tượng cho Hà Nội và miền bắc).
Lăng Ông ở Bà Chiểu (quận Bình Thạnh, TP.HCM) rộng 18.500 m², nằm giữa bốn con đường: Đinh Tiên Hoàng, Phan Đăng Lưu, Trịnh Hoài Đức, Vũ Tùng trên một gò đất cao sát bên chợ Bà Chiểu. Chung quanh khu lăng có bức tường bao bọc dài 500 m, cao 1,2 m được trổ bốn cổng ra vào theo bốn hướng, được xây dựng vào năm 1948. Năm sau, cổng Tam quan cũng được xây mở ra đường Vũ Tùng. Kiến trúc lăng mộ từ cổng Tam quan vào gồm: nhà bia - lăng mộ - miếu thờ.
Cổng vào Lăng Ông
Nhà bia được xây dựng như một ngôi điện nhỏ, tường gạch, mái lợp ngói âm dương. Bia bằng đá xanh đen (không thấy có loại đá này ở trong vùng) khắc chữ Hán, nội dung bia ca tụng công đức Lê Văn Duyệt đối với triều đình và nhân dân. Phần cuối bia có nhắc đến phu nhân Đỗ Thị Phận và Phan công Lương Khê (Phan Thanh Giản) cũng được thờ trong miếu.
Toàn thể khu mộ đều được xây bằng hợp chất ô dước. Đặc biệt phù điêu ở 2 bức bình phong (tiền và hậu) chạm khắc những hình ảnh rất giản lược nhưng lại thật thú vị. Theo ông Trần Văn Sung, Trưởng ban Quý tế Lăng Ông, thì ở mặt trước bình phong tiền chạm hình một con đại bàng đậu trên cành cây trong tư thế đang nghênh chiến khiến con khỉ dưới đất sợ hãi, co rúm - là nói về cái uy của Lê Văn Duyệt với quân Xiêm. Ở mặt sau bình phong chạm hình 2 con hổ: hổ phụ và hổ tử. Hổ cha nhảy lên, chân trước chạm vào vách núi nhưng mặt vẫn ngoái lại nhìn hổ con - là nói về tích Lê Văn Duyệt sắp qua đời vẫn hướng về người con là Lê Văn Khôi…
Bình phong hậu chạm hình “Long vân” (rồng ẩn mình trong mây) biểu tượng của bậc quan tướng nhưng đường nét cũng rất giản lược. Hai bên bình phong hậu có đắp quai, chạm hình “lá hóa long” cách điệu. Ông Trần Văn Sung cho biết mô-típ “lá hóa long” còn được các nghệ nhân thời xưa chạm khắc trên các xuyên, kèo (gỗ) trong khung mái đền thờ.
Phần mộ của Tả quân Lê Văn Duyệt và vợ ông là bà Đỗ Thị Phận. Hai ngôi mộ đặt song song và được cấu tạo giống nhau, có hình dạng như nửa quả trứng úp trên bệ lớn hình chữ nhật
Phần mộ gồm hai ngôi mộ: Tả quân và vợ ông, bà Đỗ Thị Phận. Hai ngôi mộ đặt song song và được cấu tạo giống nhau, có hình dạng như nửa quả trứng úp trên bệ lớn hình chữ nhật. Trước mộ có một sân nhỏ để làm lễ. Từ nơi nhà bia nhìn vào, mộ Lê Văn Duyệt phía bên phải. Bao quanh mộ là một bức tường bằng dày hình chữ nhật, thông ra tận sân đốt nhang đèn.
Qua khỏi khu mộ là "Thượng công linh miếu", nơi diễn ra các sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân trong việc thờ cúng Lê Văn Duyệt. Bố cục của miếu bao gồm tiền điện, trung điện và chính điện. Hai bên còn có dãy Đông lang và Tây lang... Mỗi gian điện thờ cách nhau bằng một sân thiên tĩnh (giếng trời) với những mái "trùng thiềm điệp ốc" và kỹ thuật kết nối khung nhà bằng các lỗ mộng… Ngoài ra, kỹ thuật chạm khắc gỗ, chạm khắc đá, khảm sành sứ... càng làm tăng thêm vẻ đẹp cổ kính của Lăng Ông.
Bao quanh hai ngôi mộ là một bức tường bằng dày hình chữ nhật, thông ra tận sân đốt nhang đèn
Trượng phu thời loạn
Theo sử sách, Lê Văn Duyệt sinh năm 1764 tại vàm Trà Lọt (Cái Bè, Định Tường nay thuộc tỉnh Tiền Giang). Ông theo chúa Nguyễn Ánh đánh đông dẹp bắc, qua tận Cao Miên và Lào… Tháng 5.1802, chúa Nguyễn lên ngôi vua (Gia Long), Lê Văn Duyệt được liệt vào hàng “Đệ nhất Khai quốc công thần”.
Sau này, vua triệu ông vào bàn chuyện truyền ngôi, Lê Văn Duyệt đã phản đối việc vua bỏ dòng trưởng (của Hoàng Tử Cảnh, chết năm 22 tuổi) để lập dòng thứ (Nguyễn Phúc Đảm tức vua Minh Mạng). Vì việc này mà vua Minh Mạng đem lòng oán ghét ông. Lại thêm mỗi khi vào chầu, Lê Văn Duyệt ỷ vào cái quyền “nhập triều bất bái” mà không lạy vua Minh Mạng, rồi lại dùng quyền “tiền trảm hậu tấu” mà chém đầu Phó Tổng trấn Huỳnh Công Lý là cha ruột một sủng phi của vua làm vua càng “lộn ruột”.
Hằng ngày có rất đông người dân đến thắp nhang tại Lăng Ông
Sau khi ông mất, vua Minh Mạng bãi chức Tổng trấn Gia Định, đổi tên là thành Phiên An, cho Bạch Xuân Nguyên giữ chức Tổng đốc và Nguyễn Văn Quế chức Bố chánh cùng nhau trông giữ. Bạch Xuân Nguyên, Nguyễn Văn Quế đã đối xử bất công với những người thân tín của ông, khiến Phó Vệ úy Lê Văn Khôi (con nuôi của Lê Văn Duyệt) nổi loạn giết chết 2 ông này và chiếm thành Phiên An vào năm 1835. Phải mất 2 năm công thành, quan binh triều mới hạ được Phiên An. Tất cả mọi người trong thành đều bị hành hình (gồm 1.831 người). Minh Mạng ra chỉ dụ san phẳng mộ Lê Văn Duyệt và khắc đá dựng bia "Quyền yểm Lê Văn Duyệt phục pháp xử" (Nơi hoạn quan Lê Văn Duyệt chịu tội - NV).
Năm 1841, vua Thiệu Trị lên ngôi, xóa tội cho các danh thần bị hàm oan trong đó có Lê Văn Duyệt. Cho đắp lại phần mộ Lê Văn Duyệt ở Gia Định cao rộng thêm và sửa sang miếu thờ.
Ngoài lăng mộ của ông bà còn có 2 ngôi mộ của hai cô hầu nằm bên ngoài khuôn viên lăng. Một mộ ở đường Trịnh Hài Đức, mộ kia ở đường Đinh Tiên Hoàng (trong khuôn viên Trường Cán bộ TP.HCM). Ngày 6.12.1989, toàn bộ khu lăng được Bộ Văn hóa công nhận là di tích Lịch sử Văn hóa cấp quốc gia.
Hà Đình Nguyên/thanhnien.com.vn
Banhkimlang. Tân Hương Tân Phú - 01/11/2015: Cám ơn tác giả Hà Đình Nguyên về loạt bài "Mộ các danh thần ở Sài Gòn" rất hay và có ý nghĩa giáo dục. Tôi là dân chính gốc tỉnh Gia Định xưa (nay là quận Tân Bình) rất ngưỡng mộ và kính phục tài đức của ông Lê văn Duyệt. Tôi đau lòng và không cầm được nước mắt khi đọc đi đọc lại nhiều lần truyện "Từ nấm mồ oan khuất đến lăng Ông Lê Văn Duyệt" . Thương thay anh hùng dân tộc bị xử oan sai sau khi chết vô cùng tàn nhẫn. Người dân Nam bộ cho rằng ông linh thiêng nên thường đến viếng lăng Ông và không ai dám thề độc trước lăng Ông.
Mộ các danh thần ở Sài Gòn: Lăng Ông Thượng và Ông Tổng
Ở Gò Quéo (ấp Đông, P.Bình Trưng Đông, Q.2, TP.HCM), có một quần thể mộ cổ gồm 15 ngôi mộ. Trong số đó chỉ 2 ngôi mộ lớn có bia, được xác định là của hai cha con Triệt Thanh hầu Phạm Quang Triệt và con là Tuần phủ Bắc Ninh Phạm Duy Trinh.
Hai ngôi mộ linh thiêng
Lăng mộ tọa lạc trên một vùng gò rộng lớn cao hơn 2 m, được bao quanh bởi rạch Giồng Ông Tố. 13 mộ đã mất bia, 2 ngôi mộ còn bia tuy bị hư hại nhiều nhưng trông vẫn còn rất hoành tráng, cư dân ở đây gọi là lăng Ông Thượng (lăng Ngài Triệt) và lăng Ông Tổng (lăng Ngài Trinh), hay nghĩa trang họ Phạm. Dân quanh vùng nói hai ngôi mộ này rất linh thiêng, họ thường đến lễ bái, quét dọn.
Hai ngôi mộ có bia ấy kề cận nhau, hình thể uy nghi. Ngôi mộ thứ nhất được xây dựng vào năm Kỷ Mão 1819, làm bằng hợp chất cổ (ô dước). Khu mộ bình đồ hình chữ nhật, dài 8,5 m, rộng 5,5 m. Kiến trúc từ ngoài vào trong như sau: bình phong tiền, ngôi mộ hình chữ nhật và bình phong hậu gắn liền với vòng tường bao xung quanh. Mặt trước bình phong tiền có ô hộc trang trí hình chữ nhật, bên trong có hình kỳ lân (long mã) nhưng đã phai mờ theo thời gian. Cửa mộ có hai trụ gắn vào tường bao. Trên đầu cột trụ có chạm búp sen nhưng đã sứt mẻ nhiều. Các đoạn tường bao dày trung bình hơn 0,5 m. Nấm mộ dạng hình chữ nhật giật 2 cấp cao khoảng 0,3 m so với nền đất và bị nứt, hỏng nhiều trên bề mặt mộ. Gắn chặt vào chân mộ là tấm bia làm bằng đá Non Nước (Đà Nẵng), khắc 45 chữ Hán: “Hoàng Việt. Hiển khảo Đồng Đức công thần Phụng trực đại phu chính trị khanh, Lại bộ Tả tham tri, Triệt thanh hầu, thụy Đôn Mẫn quý công chi mộ. Gia Long Kỷ Mão niên, nhuận nguyệt cốc đán. Tự tử Quang Chiêm lập bi” (Nước Hoàng Việt. Mộ Đồng Đức công thần Phụng trực đại phu chính trị khanh, Lại bộ Tả tham tri, Triệt Thanh hầu Phạm Quang Triệt, thụy Đôn Mẫn. Con nuôi là Quang Chiêm lập bia mộ ngày tốt tháng nhuận năm 1818 niên hiệu Gia Long - Kỷ Mão). Kết thúc là bình phong hậu gắn liền với bờ thành. Bình phong rộng 2,1 m chia thành 5 ô dọc hình chữ nhật, lại có những ô ngang nhỏ như cánh cửa gỗ thường thấy hiện nay. Viền bao quanh bình phong hậu trang trí hình cúc dây, hai bên bình phong có vành quai hình cuốn thư cao 1,2 m uốn lượn, được làm rất công phu và có tính nghệ thuật cao.
Ngôi mộ thứ hai được xây dựng vào năm Tân Hợi 1851, gồm các kiến trúc: cổng và bình phong tiền, mộ hình chữ nhật, bình phong hậu gắn liền với vòng tường bao quanh. Bia mộ cũng làm bằng đá Non Nước khắc 51 chữ Hán: “Đại Nam. Hiển khảo, nguyên thụ Trung phụng đại phu, Binh bộ Tả tham tri, Bắc Ninh tuần phủ, hộ lý Ninh - Thái tổng đốc quan phòng Phạm lượng phủ, thụy Trang Khải, phủ quân chi mộ. Tuế thứ Tân Hợi, mạnh hạ cát đản. Tự tử Quang Bạc lập bi”. (Nước Đại Nam. Mộ người trước đây được phong Trung phụng đại phu, Binh bộ Tả tham tri, Bắc Ninh tuần phủ, Hộ lý Ninh - Thái Tổng đốc quan phòng Phạm Duy Trinh, thụy Trang Khải. Con nuôi là Quang Bạc lập bia mộ ngày tốt tháng tư năm 1851 - Tân Hợi).
Năm 1998, nhân kỷ niệm Sài Gòn - TP.HCM 300 năm, Bảo tàng Lịch sử VN đã đưa 2 bia mộ này về trưng bày tại bảo tàng.
Khoanh vùng bảo vệ khu mộ cổ
Sách Đại Nam chánh biên liệt truyện (do các sử quan biên soạn, hoàn thành cuối năm 1889) ghi: “Phạm Quang Triệt, tổ tiên người H.Diên Phước (Quảng Nam), sau đến ở Gia Định, là em họ Hình Bộ Thượng thư Phạm Như Đăng. Triệt là người cương trực có học thuật. Năm Gia Long thứ 14 (1815) thăng Lại Bộ Tả Tham tri. Năm thứ 15, sách lập Hoàng Thái Tử (Minh Mạng sau này) Triệt được phong làm quan Phụng chiếu năm thứ 17 (1818) chết”. Còn trong Đại Nam thực lục chánh biên cũng có ghi: “Cuối năm 1794, Phạm Quang Triệt được thăng từ Cống Sĩ Viện lên Hàn Lâm Viện Thị Học theo sự bảo cử của Cương Đồng (Đình thần). Đầu năm 1803 (năm Gia Long thứ 2) được cử làm Phiên Trấn Dinh Ký Lục. Năm 1813 làm Lại Bộ Tả Tham tri, lúc đó Lại Bộ Thượng thư là Trịnh Hoài Đức, Hữu Tham tri là Võ Thanh Trung”.
Còn thông tin về Tuần phủ Bắc Ninh, Hộ lý Ninh - Thái (Ninh Bình và Thái Bình) Tổng đốc Phạm Duy Trinh thì hầu như không có. Tuy nhiên, nhận được nhiều thông tin liên quan đến 2 ngôi mộ này, dòng tộc họ Phạm ở Huế (đại diện là các ông Phạm Tất Đạt, Phạm Như Lợi, Phạm Lương Quang...) đã nhiều lần vào TP.HCM liên lạc và ghi nhận hai nhân vật này có liên quan mật thiết với dòng tộc của họ, cụ thể là 2 mộ tổ thuộc Phái Nhất, Chi Hai đã thất lạc lần 200 năm nay. Đối chiếu gia phả với các tư liệu, bia ký của hai ngôi mộ cổ các ông Đạt, Lợi, Quang chắc chắn hai ngôi mộ đó là mộ ngài Phạm Quang Triệt và ngài Phạm Duy Trinh. Các ông đề xuất đem lư hương hai ngôi mộ đó nhập vào nhà thờ họ Phạm ở Truồi, Phú Lộc, Thừa Thiên-Huế, để thờ cúng.
Ngày 15.11.2006, UBND Q.2 cùng Sở VH-TT-DL và Sở Tài nguyên - Môi trường TP.HCM đã khảo sát và đề xuất khoanh vùng bảo vệ khu mộ cổ Gò Quéo.
Hà Đình Nguyên/thanhnien.com.vn
Lương Chánh Tòng: Hình ảnh lăng trên báo là lăng mộ của Tả Tham tri Phạm Quang Triệt (?-1818), là cha của Bố chính Biên Hoà Phạm Duy Trinh. Phần mô tả kiến trúc lăng mộ thứ nhất là kiến trúc mộ của Phạm Duy Trinh nằm bên trái của lăng mộ Phạm Quang Triệt đã đăng hình ở trên.
Kho báu trong mộ cổ: Báu vật trong lăng mộ em trai Tả quân Lê Văn Duyệt
Nhiều món đồ được tìm thấy qua các đợt khai quật những ngôi mộ cổ nằm rải rác ở nhiều địa phương là những hiện vật đặc biệt có giá trị về mặt lịch sử và văn hóa.
Theo hồ sơ lưu trữ của Bảo tàng Lịch sử TP.HCM, ngày 3.11.1961, để giải phóng mặt bằng xây dựng Bộ Tổng tham mưu, chính quyền VN Cộng hòa đã thực hiện khai quật lăng mộ của Phó tổng trấn Bắc thành Lê Văn Phong (? - 1824), vị trí hiện nay nằm trong khu đất Quân khu 7 (Nguyễn Văn Trỗi - Hoàng Văn Thụ).
Lăng mộ được xây dựng bởi hợp chất kiên cố, quân đội đã phải dùng máy cơ giới mới phá được kim tĩnh và thấy được quan tài làm bằng thân gỗ to lớn nguyên khối, chạm trổ hoa văn tinh xảo. Khi mở nắp quan tài, những người khai quật thấy rõ tấm minh tinh vải điều đỏ nhũ chữ bạc trên nền hoa văn rồng mây cách điệu, càng ngạc nhiên hơn khi thấy dưới tấm minh tinh là di cốt được liệm bởi một bộ áo đại triều của võ quan cao cấp với mũ mão, cân đai, thẻ bài và những vật dụng mang nhiều đặc điểm cung đình. Nhận thấy đây là một kho báu quý, chính quyền VN Cộng hòa đã thực hiện kiểm kê và chuyển toàn bộ nhóm di vật tùy táng này về bảo quản và trưng bày tại Viện Bảo tàng quốc gia Sài Gòn (nay là Bảo tàng Lịch sử TP.HCM).
Hiện nay, tại Bảo tàng Lịch sử TP.HCM còn lưu giữ những báu vật này gồm: 1 mũ mão của quan hàm Tòng nhất phẩm Võ ban, 1 cân đai, 1 thẻ bài hình mặt giao long, 1 kính mắt, hàng chục nút áo tạo hình trân châu, móc lấy ráy tai cùng nhiều vật dụng khác là vật bất ly thân của chủ nhân đương thời. Bên cạnh phẩm phục bằng sa lụa đã bị mục nát, toàn bộ di vật được tạo bằng chất liệu chính là vàng, bịt vàng và một số ít bằng bạc.
Đáng chú ý là chiếc mão đội đầu của chủ nhân với các trang sức bằng vàng ròng, trang trí chạm trổ tinh xảo, chế tác công phu hình giao long ngậm ngọc, giao long chầu châu ngọc, hoa lá dây và các đài hoa nhiều lớp có trọng lượng lên đến 2 lượng vàng. Tư liệu hiện biết thì đây là lần đầu tiên ở VN tìm thấy chiếc mão của quan đại thần Võ ban hàm nhất phẩm thời Nguyễn nói riêng và hệ thống quan lại VN qua các triều đại nói chung xác định được nguồn gốc, niên đại và chủ nhân một cách rõ ràng. Bên cạnh chiếc mão vàng là chiếc kính đeo mắt được chế tạo bởi hoàng gia triều Nguyễn, đây là chiếc kính mắt cổ nhất hiện biết ở VN. Kính có cấu tạo dạng một mắt, dòng dây đeo theo người, khi cần dùng thì cầm kính lên soi rọi...
Năm 2014, Bảo tàng Lịch sử TP.HCM phục nguyên thành công chiếc mão của Đô thống chế Lê Văn Phong và đang tiếp tục nghiên cứu chỉnh lý để đưa ra trưng bày trong chuyên đề Phẩm phục triều Nguyễn phục vụ công chúng trong năm 2016.
Mộ công thần thành mộ vô chủ
Chính sử triều Nguyễn ghi chép: Lê Văn Phong quê quán tại xã Long Hưng, H.Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. Ông là em trai của Tả quân Lê Văn Duyệt, là công thần giúp Nguyễn Ánh thực hiện đại định thiên hạ vào năm 1802, sau đó được phong làm Đô thống chế Tả dinh quân Thần sách. Năm 1818, ông được bổ làm Phó tổng trấn Bắc thành. Năm 1824, vua Minh Mệnh cho con trai của Lê Văn Phong lấy em gái vua là công chúa Ngọc Ngôn. Tháng 8.1824, Đô thống chế Lê Văn Phong mất tại Gia Định khi về thăm quê.
Tháng 11.1835, cuộc biến loạn của Lê Văn Khôi (con nuôi Tả quân Lê Văn Duyệt) bị dẹp yên, triều đình truy luận tội Lê Văn Duyệt. Một trong 7 trọng tội của Lê Văn Duyệt được thống nhất “truy tố”, có một chi tiết quan trọng liên quan đến lăng mộ của Lê Văn Phong là: Lê Văn Duyệt gọi mộ cha Lê Văn Toại và mộ em Lê Văn Phong là “lăng” và vua Minh Mệnh đã ra chỉ dụ: Các mồ mả tiên nhân có chỗ nào tiếm lạm trái phép thì đều hủy bỏ đi. Tháng 12.1853, vua Tự Đức đã ra chỉ dụ truy trả lại hàm Thống chế cho Lê Văn Phong. Nhưng có lẽ, con cháu dòng họ Lê Văn cũng chẳng còn đủ nhân lực vật lực để có thể chăm lo thờ tự mồ mả cha ông một thời oanh liệt. Cho đến năm 1961, lăng Lê Văn Phong đã bị xếp vào mộ vô chủ nằm trong khu đất quân đội của chế độ cũ ở Sài Gòn, để rồi buộc phải khai quật di dời về bãi đất hoang gần đền thờ Võ Tánh. Năm 2012, hậu duệ dòng họ Lê Văn còn sót lại đã cho di dời di cốt của ông về ấp Tháp, xã Thái Mỹ, H.Củ Chi.
Lương Chánh Tòng/thanhnien.com.vn
Search
Access times
- Total visits58,306,831
PARTNER
Green Leaf Vietnam Trading Service Co., Ltd.
Is the leading passenger transport service company in Vietnam! In 2019, Green Leaf VN has more than 500 passenger cars from 4 seats to 50 seats, new life, reaching 150 thousand arrivals. The rate of successful and punctual pickup is 99.97%.
* Japanese customer care staff always create peace of mind and trust for customers ...
Most read
- Phạm Hổ - Thơ viết cho nhi đồng
- Người của giang hồ (5): Lâm Chín ngón
- Thuật quan sát người (4)
- Người của giang hồ (11): Hải bánh
- Người của giang hồ (8): Huỳnh Tỳ
- Thuật quan sát người (2)
- Hoàng hôn của những thần tượng
- Vài nét về tục Cúng Mụ, đầy tháng, thôi nôi
- Vài tư liệu về Tục thờ Thánh Mẫu
- Chùm thơ về Tây Nguyên

