Search
Access times
- Total visits58,324,257
PARTNER
Green Leaf Vietnam Trading Service Co., Ltd.
Is the leading passenger transport service company in Vietnam! In 2019, Green Leaf VN has more than 500 passenger cars from 4 seats to 50 seats, new life, reaching 150 thousand arrivals. The rate of successful and punctual pickup is 99.97%.
* Japanese customer care staff always create peace of mind and trust for customers ...
Most read
- Phạm Hổ - Thơ viết cho nhi đồng
- Người của giang hồ (5): Lâm Chín ngón
- Thuật quan sát người (4)
- Người của giang hồ (11): Hải bánh
- Người của giang hồ (8): Huỳnh Tỳ
- Thuật quan sát người (2)
- Hoàng hôn của những thần tượng
- Vài nét về tục Cúng Mụ, đầy tháng, thôi nôi
- Vài tư liệu về Tục thờ Thánh Mẫu
- Chùm thơ về Tây Nguyên
Articles
B.L.Pasternak (1890-1960) và M.I.Svetaeva (1892-1941) là hai thi sĩ tiêu biểu cho thơ Nga thế kỷ XX. B.L.Pasternak đã được trao giải Nobel về văn học 1958. Còn M.I.Svetaeva được đánh giá là gương mặt thơ nữ hàng đầu của thế kỷ vừa qua, không chỉ riêng cho nước Nga, mặc dù mãi mãi thơ bà thuộc về Tổ quốc Nga, tâm hồn Nga. Hai nhà thơ đều có một số phận thật bi thảm, nhất là M.I.Svetaeva. M.Gorki đã viết rằng số phận các nhà thơ Nga thường rất bi thảm. Song có lẽ không số phận nào bi thảm hơn số phận nữ thi sĩ này. Bà đã mất tát cả, chịu mọi nỗi thống khổ, đày đọa, bất công và cuối cùng đã phải tự kết thúc đời mình khi mới ngoài bốn mươi tuổi. Cho đến nay vẫn không sao tìm thấy mộ người nữ thi sĩ thiên tài này.
Dưới đây là những thư từ trao đổi giữa Marina Svetaeva và Boris Pasternak diễn ra từ năm 1922 đến năm 1936. Sau một thời gian dài được bảo quản trong kho lưu trữ các tư liệu văn học nghệ thuật quốc gia Liên bang Nga, những bức thư quý giá đã được trưởng nữ của M.Svetaeva là Ariadna Efron cho phép công bố. Các chuyên gia Nga đã phải bỏ nhiều công sức và thời gian để phục chế những trang thư đã bị năm tháng làm ố vàng, mủn nát này. Những chỗ đứt mạch trong văn bản được đánh dấu bằng ký hiệu (...). Trong một số trường hợp hãn hữu, để cho dễ đọc, các dấu ngắt câu được đặt theo sự thông dụng hiện nay của tiếng Nga hiện đại.
Hy vọng, qua những gì rất riêng tư của hai bậc thiên tài, ta hiểu thêm được nhiều điều về tâm hồn nhà thơ, về thơ và về một thời đại, một thế kỷ đầy những phức tạp, biến động mà chúng ta vừa trải qua.
Lê Sơn dịch. Nguồn: Tạp chí Thơ
Moskva 14/6/1922
Pasternak gửi Svetaeva
Chị Marina Ivanovna thân mến,
Bây giờ tôi đang run lên vì xúc động khi bắt đầu đọc cho em tôi nghe bài thơ Ta biết ta sẽ chết vào một trong hai buổi rạng đông của chị và đã mấy lần phải ngừng lại vì nghẹn ngào (...). Xin chị hãy tha thứ, hãy tha thứ cho tôi! Làm sao lại có thể xảy ra là trong khi cùng với chị lê bước theo sau linh cữu Tatjana Fedorovna mà tôi lại không rõ tôi đang đi cạnh ai? Cuộc đời này mới kỳ quặc và ngu xuẩn làm sao! Mới cách đây một tháng, tôi có thể với tới chị ở khoảng cách một trăm bước, thế mà nay đã xa tới "Ngàn dặm"[1] (...)
Chính tôi cũng đang chuẩn bị ra nước ngoài đây. Tôi nhất định sẽ muốn gặp chị theo cách khác, còn hơn là lúc nào cũng muốn.
Người mà chị gây niềm xúc động.
B.Pasternak
19/11/1922
Svetaeva gửi Pasternak
Boris Leonidovich thân mến,
Tôi đã để cho bức thư của anh nguội lạnh trong lòng, bị chôn vùi trong đống đá dăm hai ngày - liệu còn nguyên vẹn không? Và đây, nó được bới ra từ dưới đống đá dăm.
Mùa đông năm 1919, cuộc gặp gỡ trên đường phố Mokhovaja. Anh đem Soloviev (?) đi bán - "Bởi vì trong nhà hết nhẵn bánh mì rồi" - "Thế anh dùng bao nhiêu bánh mì mỗi ngày?" - " Nửa cân". - "Còn tôi thì 3 lạng. Anh vẫn viết đấy chứ?" - "Vẫn (hoặc không, điều này không quan trọng)" - "Tạm biệt nhé!" - "Tạm biệt!".
Ngày 11 (theo lịch cũ) tháng 4 năm 1922. Lễ tang T.F.Skrjabina. Tôi chơi thân với chị ấy hai năm liền, tôi là người bạn gái duy nhất của chị ấy trong đời. Một tình bạn khô khan, toàn bàn chuyện công việc, một tình bạn như của nam giới, không có vẻ dịu dàng của nữ tính.
Tôi đang đi cùng Kogan, rồi thêm một người nào nữa. Và đùng một cái, tay nằm gọn trong tay. Anh xuất hiện.
Giờ đây cái chủ yếu nhất là chúng ta đang đứng cạnh ngôi mộ. Tay không còn nắm tay nữa. Bằng bờ vai, tôi cảm thấy rằng - như bao giờ cũng vào giây phút đầu tiên sau cuộc chia tay - anh đứng kề bên, hơi lùi xuống phía sau một chút. Tôi đang suy nghĩ về Tatjana Fedorovna. Chút không khí cuối cùng trên dương thế của chị ấy... Và khi tôi ngoảnh lại, thì anh đã biến mất rồi.
Berlin 29/7/1922
S. gửi P.
Tôi hiện đang ở Tiệp (gần Praha), sống trong một ngôi nhà nông dân ở Mokropsy. Ngôi nhà cuối cùng trong làng. Dưới chân núi có con suối, hàng ngày tôi vẫn xuống đấy lấy nước. Riêng việc nhóm chiếc bếp lò khổng lồ ốp gạch tráng men mất đứt đi một phần ba ngày. Cuộc sống ở đây không khác mấy so với cuộc sống ở Moskva, phần sinh hoạt của nó có lẽ thậm chí còn nghèo nàn hơn! Nhưng gia đình và thiên nhiên đã bổ sung cho việc làm thơ. Hàng tháng trời tôi không nhìn thấy ai cả.
10/2/1923
S. gửi P.
Tháng cuối cùng của mùa thu này tôi thường xuyên ở bên anh, không xa dời anh chứ không phải là quyển sách. Có một dạo tôi hay đến Praha, và tôi đứng chờ tàu tại nhà ga xép bé tí tẹo ẩm ướt của chúng ta. Tôi thường đến sớm, vào lúc chạng vạng tối, trước khi lên đèn. Tôi đi đi lại lại trên sân ga tối om - xa quá! Và có một chỗ - chiếc cột đèn - không ánh sáng, từ nơi đó tôi gọi anh: "Pasternak!". Và chúng ta vừa dạo bước bên nhau vừa nói chuyện dài dài...
Tôi không nói rằng anh rất cần cho tôi, anh rất cần trong cuộc đời tôi, dù tôi có nghĩ gì đi chăng nữa thì chiếc đèn tự nó sẽ xuất hiện. Tôi phù phép ra chiếc đèn...
Và mãi mãi, mãi mãi, mãi mãi, Pasternak ạ, tại tất cả các nhà ga của cuộc đời tôi, bên tất cả các cột đèn của số phận tôi, dọc theo tất cả các con đường trải nhựa, dưới tất cả "các cơn mưa rào chênh chếch", đó sẽ là: nếu tôi gọi thì anh đến.
Còn bây giờ, Pasternak ạ, tôi có một lời cầu xin như thế này: Xin anh đừng trở về nước Nga mà chưa gặp tôi. Nước Nga đối với tôi là un grand peut-etre, gần như là cõi trần gian. Anh cứ việc đến quần đảo Guadeloupe, đến với lũ rắn rết, đến với đám người hủi, tôi sẽ không gọi lại. Nhưng nếu anh trở về nước Nga thì tôi gọi lại.
Hai lần anh viết trong thư "tôi khổ tâm lắm". Đó chỉ là vì anh tiếp xúc với con người. Anh là phi công! Anh hãy đến với thần linh: đến với cây cối. Đó không phải là tính đa cảm, đó là lời khuyên của thày thuốc.
Nỗi khổ duy nhất của tôi là ở Berlin tôi đã không chờ được anh.
11/2/1923
S. gửi P.
Anh không phải là con người và không phải là nhà thơ mà là một hiện tượng của thiên nhiên. Do sai lầm nên Chúa đã tạo ra anh thành con người, bởi thế anh không thâm nhập được vào bất cứ một cái gì! Và - lẽ cố nhiên - thơ của anh không phải là thơ của con người. Chẳng có một dấu hiệu nào cả. Chúa định tạo anh thành cây sồi, nhưng lại biến anh thành con người, và tất cả sấm sét đều đánh vào anh (có những cây sồi như thế!) còn anh thì cần phải sống.
9/3/1923
S. gửi P.
Anh Pasternak, tôi không đến được đâu (chồng tôi đang ốm và phải cần hai tuần lễ để làm thị thực. Nếu như chồng tôi khỏe thì anh ấy có thể làm được một điều gì đó, còn tôi thì đành chịu) (...) Tôi đã bắt tay vào viết một tập văn xuôi khá dày (chép lại!) và dự định đến giữa tháng tư thì viết xong. Tôi làm việc suốt ngày không nghỉ tay. Bao nhiêu là việc! Có mối liên hệ nào nhỉ? Rõ rồi. Cuộc sống của tôi rất chật vật. Tôi phải kiếm ít tiền để gặp anh. Chuyện này tôi cũng đã làm được. Bây giờ thì muộn rồi: sẽ có sách, nhưng không có anh. Anh rất cần thiết cho tôi chứ không phải là sách.
Bây giờ tôi đang nằm và sẽ nghĩ đến anh. Thoạt tiên thì mở mắt rồi sau đó thì nhắm mắt lại. Từ vương quốc của chữ nghĩa chuyển sang vương quốc của những giấc mơ.
Sáng mai tôi sẽ viết nốt. Bây giờ đã hơn ba giờ rồi và anh đã ngủ từ lâu. Tôi suốt đêm nói chuyện với anh trong giấc mơ.
Ngày 20/3/1923
P. gửi S.
Rồi thời gian sẽ trôi qua, nó sẽ không thuộc về cả tôi lẫn chị chừng nào mà cô vợ thân yêu hay làm tình làm tội của tôi biết rõ rằng những lời của tôi nói về mình và về chị là không giả dối, không gian trá và không ngây thơ một cách trẻ con, chừng nào mà cô ta chưa tận mắt thấy được rằng tình bạn sang trọng và cao thượng mà tôi từng nói cho cô ta biết với tất cả bầu nhiệt huyết của mình, quả thực là một tình bạn sâu đậm và quả thật chỉ là tình bạn (...). Đó là một điều không may mang tính chất định mệnh là chúng ta chưa gặp nhau tay ba. Nếu đã gặp nhau rồi thì cả ba chúng ta ắt tránh được sự cãi vã nhỏ nhen như vậy. Tôi tin chắc rằng cô ấy cũng sẽ yêu mến chị như những cuốn sách của chị mà tôi và cô ấy rất khâm phục và không hề có chút hiểu nhầm và sự khó chịu nào cả. Tôi làm thế nào để cho cô ấy biết rằng điều gì đã gắn bó tôi với chị khi mà ngay cả đối với chị, tôi cũng không thể diễn tả được điều ấy.
Mùa thu này chúng tôi sẽ có tí nhau, và điều ấy đã khiến cho cô vợ tội nghiệp của tôi trở về nhà. Và chúng tôi đang trên đường đi về đây. Chị Marina ạ, nếu như Zhenja thức dậy thì tôi đành phải dừng bút ở đây và cứ thế gửi đi. Riêng cái sự lừa dối này sẽ được cả ba chúng ta tha thứ.
Tháng 7 năm 1924 - 5/7
S. gửi P.
Đề tài của Blok là nước Nga, Peterburg, những người Di-gan, người đàn bà đẹp v.v... Còn những cái khác (tức là ông ấy, Blok, dưới dạng thuần túy) được nhìn nhận như thứ phụ lục không mất tiền. Còn anh, Boris ạ, không có đề tài. Toàn bộ con người anh là một dạng thuần khiết. Người ta yêu quý anh từ phía nào, vì cớ gì? ở phía sau những bài thơ của anh là cái gì? Một cái gì đó đại loại như Tâm hồn, Anh. Đề tài của anh là chính bản thân anh mà anh hãy còn đang khám phá như Columbo khám phá châu Mỹ, bao giờ cũng bất ngờ và không phải cái mà độc giả suy nghĩ, mà độc giả đoán định. ở đây độc giả yêu quý cái gì? Độc giả yêu quý anh đấy. Anh là nhà thơ lớn nhất của thời đại anh, là người đầu tiên xuất phát không cần đề tài, dám viết về chính bản thân mình.
Mùa thu 1924
S. gửi P.
Anh Boris, nếu như không có chuyện gì xảy ra, tôi xin nhắc lại một cách vắn tắt: trong tháng hai tới tôi đang mong đợi một đứa con trai. Vì đứa bé này mà hai người bạn của tôi đã không chơi với nhau nữa - do sự giận dỗi mang tính chất đàn ông thuần túy, do sự phẫn nộ dường như tôi đã lừa dối họ, mặc dầu tôi chả hứa hẹn một điều gì cả!
Từ khi cháu gái thứ hai của tôi ra đời (cháu sinh năm 1917 và nất năm 1920) bảy năm đã trôi qua. Đây là đứa bé đầu tiên đến gõ cửa sau bảy năm ấy. Anh Boris ạ, nếu như anh vì nó mà không quý tôi nữa thì tôi sẽ không hối tiếc. Tôi đã xử sự đúng, tôi không thọc gậy vào bánh xe của số phận.
14/2/1925
S. gửi P.
Georgi, con trai của tôi, sinh vào giữa trưa chủ nhật mùng một tháng hai. Nó là Boris chín tháng trong bụng tôi và mười ngày ngoài đời, nhưng S. có nguyện vọng (chứ không phải là yêu cầu) gọi nó là Georgi, và tôi đã nhượng bộ. Và sau chuyện đó tôi thấy nhẹ cả người.
Nếu tôi gọi nó là Boris tức là tôi mãi mãi phải từ biệt với Tương lai: với anh, Boris ạ, và với con trai của anh. Do đó, tuy gọi nó là Georgi, tôi vẫn giữ cho mình cái quyền đối với Boris (Boris vẫn còn ở trong tôi)
Vào đúng giây phút nó ra chào đời thì chai rượu cồn cạnh giường tôi bốc cháy, và nó xuất hiện trong tiếng nổ của ngọn lửa xanh. Còn ngoài đường phố thì một cơn bão tuyết nổi lên mù mịt, anh Boris ạ. Cơn bão tuyết duy nhất trong mùa đông và đúng vào giờ sinh của nó!
Con trai tôi, Sonntagskind[2], sẽ hiểu được tiếng nói của thú rừng và chim muông và sẽ khám phá ra những kho báu. Tôi đã đặt mua nó cho mình.
Tôi đã tập cho linh hồn tôi quen sống bên ngoài cửa sổ, cả cuộc đời tôi đã nhìn nó qua cửa sổ - hỡi ôi, chỉ nhìn nó mà thôi! - tôi không cho nó vào nhà như người ta không đem con chó nuôi ngoài sân hay con chim tuyệt đẹp vào nhà. Tôi đã biến linh hồn tôi thành ngôi nhà của mình (maison roulante) nhưng không bao giờ biến ngôi nhà thành linh hồn. Tôi vắng mặt trong cuộc đời mình, tôi không có nhà.
Cuộc sống của chúng ta rất giống nhau, tôi cũng yêu mến những người mà tôi cùng sống, nhưng đó là số phận. Còn anh là ý chí của tôi, cái ý chí của Pushkin, thay thế cho hạnh phúc (nói chung tôi không nghĩ rằng tôi được hạnh phúc với anh!) Anh là người anh cao vời vợi của tôi, còn tất cả những người khác trong cuộc đời tôi đều là cá mè một lứa.
S. gửi P.
(...) Tôi đặt cho con trai tôi cái tên Georgi là để tưởng nhớ Moskva và Chiến thắng hão huyền. Nhưng tuy thế, tôi vẫn không gọi nó là Georgi mà gọi là Mur - từ chữ Mèo mà ra, anh Boris ạ, từ nước Đức và phần nào từ Marina. Sắp tới, nó đầy 4 tháng (...) Con trai anh chỉ hơn nó hai, à không, hơn nó 15 tuổi. Chúng sẽ là bạn bè của nhau (nó sẽ biết tên của anh sớm hơn là con trai anh biết tên tôi!)
Tôi còn nhớ những lời của anh về tình phụ tử trong bài thơ kỳ diệu Những con đường trên không của anh. Tôi muốn đề nghị một công thức như sau: vòng quanh thế giới (thủy thủ) và vòng quanh vũ trụ (người cha). Bởi lẽ cái nôi là vũ trụ đích thực duy nhất.
25/6/1925
S. gửi P.
Tôi cảm thấy anh là người đứng đầu của một thế hệ (cao hơn cả tháp Babilon). Anh là tảng đá cuối cùng của thành Babilon đang sụp đổ và tên của anh, Boris ạ, vang lên trong tâm thức của tôi như mối nguy cơ báo trước một cơn phong ba - đó là tiếng ầm ì vọng lại từ một nơi rất xa. Và hoặc là phải làm dấu, hoặc là đóng cửa sổ lại. Còn tôi thì mở toang cửa ra đón cơn phong ba ấy để cầu may!
2/7/1925
P. gửi S.
Tôi sống rất chật vật và có những lúc tôi hoàn toàn tuyệt vọng. Tôi viết thư cho chị đúng vào một trong những thời kỳ ấy.
Tôi rất lấy làm cay đắng cho các bạn bè của mình, tôi khiếp đảm đối với chính mình và xấu hổ đối với ý nghĩ cho rằng bản chất của con người chân chính là như vậy sao, tôi rất bất tài và thảm hại.
Đã bốn ngày nay tôi đến các nhà xuất bản và các tòa soạn. Tôi cần phải kiếm cho bằng được gần ba trăm rúp để giữ lại căn nhà và nộp thuế. Tôi vất vả lắm mới có được năm mươi rúp và không biết phải làm thế nào bây giờ. Đó là một thủ tục rất nhục nhã.
Tôi đã bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết bằng thơ. Tôi hứa với mình là sẽ giữ kín công việc này cho đến lúc hoàn tất. Và lại những lý do vật chất không vượt qua nổi nằm chắn ngang công việc và cắt đứt một cách máy móc cái đã trở thành chương thứ nhất. Tôi đành phải cho mọi người xem và mang ra chợ. Người ta đã tranh nhau đòi mua tác phẩm của tôi.
Chị trong sạch hơn tôi và cương nghị hơn tôi bởi vì chị đã không thay đổi. Còn tôi thì chị không thể nhận ra được đâu. Nếu tài năng được hình dung giống như một dạng độ cong của cơ cổ có chức năng nâng cằm lên theo một cách đặc biệt thì đường gân kiêu hãnh nhà nòi ấy tôi thường xuyên nhìn thấy ở chị và tôi không ngừng cảm nhận rằng dường như tôi có thể khắc họa chị bằng cách phân tích tình cảm của bản thân mình vào những giây phút hưng phấn thi ca. Nhưng chính chị cũng làm nó lộ ra, chị viết cùng với chiếc cổ áo mở phanh. Chất trữ tình của chị vẫn trẻ trung như trước đây, cái dáng ngồi thần thánh đã lưu lại trong chất thơ ấy.
10 - 14/7/1925
S. gửi P.
Thế là tôi đã 8 năm (1917-1925) sôi sục trong cuộc sống hàng ngày. Tôi chính là con dê mà người ta muốn giết thịt, mà người ta nhất định sẽ giết thịt và đang giết dở dang. Tôi là cái món ăn nóng (8 năm) sôi sùng sục trên bếp dầu... Tôi bị hành hạ bởi lòng thương xót và sự tức giận, thương xót đối với bạn bè, tức giận đối với mình: vì những gì mà tôi đang chịu đựng. Tôi khinh rẻ mình vì theo tiếng gọi đầu tiên (1001 trong ngày) của cuộc sống đời thường tôi đã bứt ra khỏi quyển vở và không bao giờ quay trở lại. Trong tôi có nghĩa vụ của đạo Tin lành mà trước nó, thậm chí tình yêu thiên chúa giáo của tôi (đối với anh) chỉ là trò đùa, là chuyện vớ vẩn.
Tôi dữ tợn một cách điên cuồng, và người ta không ưa tôi, người ta thán phục tôi, sợ tôi. Suốt ngày tôi sôi sùng sục trong vạc dầu. Trường ca "Krysolov" được viết đã sang tháng thứ tư, tôi không có thời gian để suy nghĩ, đấy là ngòi bút đang suy nghĩ... Tôi thực sự sống ẩn dật. ở chỗ anh chí ít giữa tòa soạn và tòa soạn, giữa tòa soạn và ngôi nhà còn có những mẩu, những đoạn vỉa hè, không gian. Còn tôi đang sống trong lòng chảo, tôi bị nghẹt thở bởi những ngọn đồi... Tôi không có bạn bè - ở đây người ta không yêu thơ, không cần thơ, không cần người làm thơ. Vậy thì tôi là cái gì? Mụ chủ nhà vẻ mặt lạnh lùng, một người đàn bà còn trẻ ăn mặc lôi thôi lếch thếch. Lại hay nói mỉa như đàn ông!
Có điều tôi không hiểu anh: bỏ thơ rồi à? Vậy thì làm gì? Đứng từ trên cầu nhảy xuống sông Moskva chăng? Này anh bạn thân yêu ơi, đối với thơ cũng như đối với tình yêu vậy: nó bỏ anh chứ không phải anh bỏ nó.
4/1/1926
P. gửi S.
Về cái chết của Esenin. Nỗi khủng khiếp này đã làm tôi bối rối hoàn toàn...
Anh ấy đã sống một cuộc sống rực rỡ tuyệt vời. Về mặt tiểu sử, trong phạm vi một con người, - đó là sự thể hiện tột cùng trong thơ ca những cái mà không thể không kính phục, những cái mà chị vẫn còn trung thành, nhưng tôi thì không. Bài thơ cuối cùng anh ấy đã viết bằng máu. Thơ của anh ấy thấp hơn rất nhiều so với lòng dũng cảm của anh ấy, so với sự sôi nổi, sự quậy phá ngang tàng và sự đam mê của anh ấy. Thiên hạ đã biến chúng ta thành những đối thủ của anh ấy với ý nghĩa là không hiểu sao người ta lại đem tôi ra so đọ với anh ấy mặc dầu tôi đã nhiều lần bác bỏ cái điều nhảm nhí này. Tôi đã đi tới chỗ tự hạ mình trong mọi nỗ lực nhằm đả phá sự so sánh đó, một sự so sánh kỳ quặc, không cần thiết và xúc phạm đối với cả hai phía. Một đằng là một quãng đời sôi nổi, một vùng đất màu mỡ sâu thăm thẳm, một thang danh lừng lẫy được tất cả các tòa soạn và các nhà xuất bản thừa nhận, còn một đằng là cuộc sống lay lắt, tầm thường, là sự tranh cãi thường xuyên, một tầm hiểu biết hạn hẹp, là những điều bí ẩn và những nhiệm vụ khác hẳn, hoàn cảnh đáng xấu hổ của những từ chối và những sự lập lờ nước đôi. Và chỉ duy có một lần, khi tôi bỗng dưng nghe được từ chính miệng anh ấy thốt ra cái điều xúc phạm mà tự tôi đã vu oan cho mình (...), tôi đã cho anh ấy một cái tát. Vả lại, anh ấy định chọc tức tôi, nói rằng Majakovski lớn hơn tôi. Thật ra, đó là sự thừa nhận của chính tôi và điều này bao giờ cũng mang lại cho tôi niềm vui. Bây giờ nhắc đến chuyện ấy thật chua xót và vô nghĩa.
23/2/1926
P. gửi S.
(...) Dường như Esenin trước lúc ra đi đã nói với Kazin: "Rồi cậu sẽ thấy người ta sẽ viết về mình như thế nào". Thiên hạ muốn đem điều này gắn với sự phỏng đoán cho rằng dường như E. muốn sắp đặt mưu đồ tự sát. Đó là lý do để người ta giải thích một hiện tượng là bàn tay phải của anh ấy đặt ở yết hầu và bị kẹp trong thòng lọng.
19/3/1926
P. gửi S.
Sau đó tôi muốn kể với em về vợ tôi và về đứa nhỏ, về sự thay đổi đã xảy ra với tôi vào những năm đó và vào những ngày này, về việc người ta không hiểu nó ra sao, về việc lương tâm tôi trong sạch như thế nào và, trong khi bị em làm tôi xúc động đến nghẹt thở, tôi yêu ra sao và lo lắng ra sao khi cô ấy không chịu uống dầu cá (...). Chỉ có em mới có thể nói lên sự thật, chỉ có trên đường dẫn tới em cô ấy mới không bị những lời gièm pha đàm tiếu nhảm nhí làm cho mất khôn để đi đến chỗ ăn nói láo lếu. Em cứ sống hạnh phúc ở London cũng như tôi giờ đây được hạnh phúc ở bên em.
27/3/1926
S. gửi P.
Tiện thể cũng nói thêm rằng, tại một buổi cãi vã ầm ĩ, mọi người vào hùa với nhau xỉ vả chúng ta. "Cái trò dơ dáy giống như Pasternak và Svetaeva". ở nước ngoài chúng ta đi dạo trong công viên đến mức lố bịch. Ai cũng kháo nhau.
Em không bao giờ trở về nước Nga. Vì một lẽ đơn giản là cái đất nước ấy không còn nữa. Em chẳng có chỗ nào để trở về cả. Em không thể trở về cái con chữ mà em không hiểu nghĩa (người ta giải thích và em quên mất).
9/4/1926
S. gửi P.
Còn về sự lịch thiệp lý tưởng thì anh hãy nhớ tới Blok và Majakovski, cả hai người mà em có thể yêu (bây giờ thì không). Em đã từng đứng cách Blok chưa đến một mét, đám đông đã xô đẩy em đến sát ngay bên cạnh. Đấy là năm 1921, còn vào năm 1916 em đã viết "Tên cũng không gọi và tay cũng không chìa". Và em đã không chìa tay. Nhưng ông ấy đã mất rồi. Còn với Majakovski - một buổi sáng sớm trên phố Bolshaja Lubjanka, một tiếng gọi oang oang như sấm: Svetaeva! Em đã ra nước ngoài - anh có nghĩ rằng em lại không muốn lúc này, vào 6 giờ sáng, trên đường phố, không có ai nhìn thấy, em lao đến ôm chầm lấy con người khổng lồ ấy và từ giã nước Nga? Em không lao đến bởi vì em biết rằng có Lilja Brik[3] và hiện không biết còn có thêm ai nữa...
Mãi đến năm 1926, sau giới quý tộc London, em mới hiểu rằng em được dạy dỗ theo kiểu quý tộc chứ không phải theo kiểu trí thức - đó là khuynh hướng của người mẹ mất sớm. Do đó, từ mẹ em, có sự căm ghét đối với giai cấp tư sản và thái độ bán khinh bỉ - không phải không có lòng nhân hậu - đối với giới trí thức mà em không bao giờ liệt mình vào loại đó!
20/4/1926
P. gửi S.
Có hàng nghìn khuôn mặt phụ nữ mà tôi có thể yêu, nếu như tôi cho phép mình. Tôi sẵn sàng lướt qua mọi biểu hiện của nữ tính mà cuộc sống của tôi đầy dẫy những bóng dáng ấy. Có lẽ, nhằm bổ sung cho đặc điểm này, tôi đã sinh ra và hình thành trong sự kiềm chế hoàn toàn và gần như tuyệt đối.
(...) hãy trả lời cho chính mình như chưa từng bao giờ trả lời ai như thế. Tôi đến chỗ em ngay bây giờ hay sau một năm nữa? Sự chần chừ này ở tôi không phải là vô lý, tôi có những lý do để phân vân về thời hạn, song tôi không đủ sức để dừng lại ở quyết định thứ hai (tức là sau một năm).
28/4/1926
S. gửi P.
Sau một năm nữa. Anh là niềm hạnh phúc hết sức lớn lao đang từ từ tiến lại. Anh hỏi ai cơ chứ? Hỏi người phụ nữ mà từ khi có trí nhớ đã ba ngày cầm thư anh chỉ cốt để không đọc! (Anh là cơn giông đang tiến gần lại).
Anh Boris ạ, giá như em bây giờ chưa lấy ai cả. Anh đã biết điều mơ ước thời thơ ấu của em (điều mơ ước của nhiều người, điều mơ ước mà em đã được nghe tận tai hàng chục lần - từ những cô bé đến những bà lão): chỉ một mình ta là đứa trẻ mà thôi. Cuộc sống ở bên nó, ở trong nó và không cần đến người khác.
St. Gilles 23/5/1926
S. gửi P.
Em không thích biển. Em không thể. Nó quá bao la nhưng không đi bộ trên đó được. Còn ban đêm! Nó lạnh lẽo, lồng lộn, không nhìn thấy được, không yêu thương được, nó xâm chiếm lòng mình như Rilke. Em thương cho đất, nó lạnh quá. Biển không lạnh, đó chính là nó (...). Một cái đĩa kỳ dị, phẳng lì, anh Boris ạ! Một cái nôi đáy bằng khổng lồ từng phút hất tung lên đứa trẻ con (những con tàu). Không thể vuốt ve nó được (vì nó ướt át). Không thể cầu nguyện cho nó (vì nó kinh khủng). Biển cả là sự chuyên chế, anh Boris ạ! Núi đồi mới là thần thánh.
20/7/1926
S. gửi P.
(...) Em sang Séc, còn anh thì yêu thương vợ mình nhất trên thế gian này, và mọi việc đều ổn cả.
Anh Boris này, một người ở đây còn một người ở bên ấy - điều này là có thể được, nhưng cả hai người đàn bà cùng ở bên ấy - điều này là không thể được và chưa từng xảy ra...
Người ta không nhìn theo hai đoàn tàu. Xin anh đừng sợ rằng em làm giảm bớt tình yêu của anh đối với vợ bằng một cách nào đó, nhưng "tôi yêu cô ấy hơn tất cả một thứ trên đời này" - tại sao anh lại khẳng định điều đó với em. Cô ấy cần phải biết điều đó chứ không phải là em.
31/5/1927
S. gửi P.
Anh Borjushka, anh lo nghĩ đến thanh danh.
Em hiểu rồi... em đang đánh mất thanh danh của mình. Liệu trong chuyện này có cay đắng không? Buồn bực lắm chứ, và anh có biết tại sao không? Em tin chắc rằng nếu em được xuất bản ở Nga thì tất cả mọi người nhất định sẽ hiểu em. Vâng, đúng thế, tất cả, bởi vì mỗi người sẽ tìm thấy cái của mình, bởi vì em là rất nhiều, là vô khối. Và cái tình yêu đó đã mang em đi.
Hiện nay ở Nga cái ngai vàng mà em có quyền được hưởng chứ không phải do sự ao ước, đang bỏ trống. Em đang nói với anh như nói với lương tâm của mình. Anh được kén chọn hơn em. Anh đang biến cái hữu hình thành cái vô hình, còn em thì biến cái vô hình thành cái hữu hình. Anh đang làm cái công khai trở thành cái bí ẩn, còn em thì làm cái bí ẩn trở thành cái công khai: em đang phanh phui tất cả.
Nhưng hãy quay trở lại với thanh danh - sách của em không có ở Nga và bởi thế cũng không có nhà thơ.
19/7/1927
P. gửi S.
Cuối tuần trước người ta chuyển báo từ thành phố đến. Có những thứ mà đối với chúng sự im lặng của nỗi buồn vô biên và của cú sốc là tự nhiên hơn hết thảy. Từ năm 1914, mười ba năm, dường như đó là thời gian để ta quen với những án tử hình như là "một hiện tượng trong đời sống" của thế kỷ yêu chuộng tự do! Nhưng không thể được. Điều đó gây nên sự căm phẫn tột độ. Chân trời bị bịt kín. Nói gì đây? Ngày mai, tôi sẽ giở tờ báo được đưa từ thành phố tới, và một nhà báo mặc áo vét-tông đang phải vất vả kiếm tiền để nuôi bản thân và gia đình sẽ thông báo với tôi rằng cách hành hình theo kiểu xé xác phanh thây và bắt ngồi trên cọc nhọn là phát minh mới nhất của loài người tiến bộ từng đọc Mác trong thư viện chứ không phải gặm nhấm ông ta trong hang núi. Còn ngày kia, một gã chó đẻ khác (Marina, xin hãy thứ lỗi cho tôi) do bổn phận nghề nghiệp sẽ chứng minh rằng tôi là một tên gián điệp của Anh bởi vì trên chiếc phong bì mà tôi nhận được có dán mấy chiếc tem Anh quốc và bức thư được gửi từ London. Nhu cầu về sự liên lạc với mọi người và với thế giới dưới con mắt của những kẻ ngu đần thiển cận chỉ là trò ngông cuồng nhảm nhí mà thôi!...
16/3/1931
S. gửi P.
Anh Boris ạ, em không phải là nữ anh hùng trong chuyện yêu đương. Thành thật mà nói, em là anh hùng lao động - trong công việc viết lách, trong công việc nội trợ, trong công việc làm mẹ, trong công việc đi bộ. Đôi chân của em là anh hùng và hai tay là anh hùng, cả trái tim và đầu óc cũng đều là anh hùng.
Giữa ngày 2 và 10/7/1931
S. gửi P.
Em sẽ bắt đầu từ bức tường. Hôm qua lần đầu tiên (trong suốt cuộc sống ở bên anh và trong anh) trong lúc chưa nghĩ xem mình nên làm gì (và liệu em có làm cái điều em nghĩ không), em đem treo anh lên tường, một gã trẻ tuổi, lai chính hiệu, đầu ngửng cao, sản phẩm của người cha (...). Bây giờ thì em có thể dễ dàng nói: "Còn đây là Boris Pasternak, nhà thơ Nga ưu tú nhất, người bạn lớn của tôi", đấy là em chỉ nói những điều mà tự em biết.
Về sự kế thừa. Về trách nhiệm. Có thể từ sau khi Pushkin mất đến trước khi anh xuất hiện chưa có ai chăng? Bởi lẽ Blok, Tjutev và những người khác - vẫn là Pushkin, bởi lẽ Nekrasov là nhân dân, tức là vẫn là Arina Rodionovna. Duy chỉ có anh, "một gã điển trai, hai mươi hai tuổi"... Em nghĩ rằng từ Pushkin có sự kế thừa trực tiếp theo hai hướng, một hướng là anh còn hướng kia là Majakovski.
7/1935
S. gửi P.
Và em là con ngốc vì đã yêu anh ngần ấy năm bất chấp mọi trở ngại.
Nhưng công việc của em thì khác, anh Boris ạ. Một phụ nữ kém nhan sắc, mang dấu ấn cá biệt như em, mà lại không còn trẻ nữa, thật là bẽ bàng khi yêu một anh chàng điển trai. Điều này rất giống như trò tinh nghịch của những cô gái Mỹ luống tuổi.
Anh rất nhân hậu đối với em trong buổi gặp gỡ sau cùng của chúng ta, còn em thì rất ngu ngốc.
Em đã bảo vệ quyền con người được sống đơn lẻ không phải ở trong phòng, đối với công việc viết văn, mà trên cõi đời này và em sẽ không dời khỏi nơi đó.
Em thấy hổ thẹn khi bảo vệ quyền con người được sống cô đơn, bởi vì tất cả những người đứng được đều cô đơn, còn em thì bé nhỏ nhất trong số đó.
Tháng Mười 1935
S. gửi P.
Về anh. Không thể phán xét anh như một con người bởi lẽ khi ấy thì anh sẽ là tên tội phạm. Muốn gì thì gì em cũng sẽ không bao giờ hiểu được rằng làm sao lại có thể đi trên tàu hỏa ngang qua nhà mẹ mình mà không dừng lại sau 12 năm chờ đợi. Và người mẹ cũng không hiểu - đừng có chờ đợi! ở đây là giới hạn nhận thức của em, của chúng ta, của loài người. Trong trường hợp này em làm ngược lại anh: em sẽ mang con tàu trên mình để gặp (...). Bây giờ, khi tổng kết lại, em thấy rằng sự tàn nhẫn giả vờ của em chỉ là hình thức, chỉ là đường viền ngoài của thực chất, chỉ là cái ranh giới cần thiết để tự vệ chống lại sự mềm yếu của các anh, Rilke, Marcel Proust và B.Pasternak. Bởi vì các anh vào giây phút cuối cùng đã buông tay và bỏ lại em, người mà từ lâu đã bị loại khỏi gia đình của loài người, mặt đối mặt với nhân tính của em. Giữa các anh, các vô nhân, em chỉ là một con người. Em, khi nào chết đi, sẽ không kịp nghĩ về linh hồn (về em) vì em còn quá bận: liệu những người đi tiễn đưa tương lai của em có được ăn uống đầy đủ hay không, liệu những người thân cận có bị khánh kiệt vì cuộc hội chẩn của em hay không và, chưa biết chừng, trong trường hợp tốt nhất mang tính chất vị kỷ, những bản thảo của em có bị đánh cắp hay không?
Em chỉ là mình (là linh hồn) trong những quyển vở của em, và trên những nẻo đường cô đơn, hãn hữu, em suốt đời dắt tay đứa trẻ. Nhưng chính bởi vì em suốt đời lo lắng, suốt đời hậm hực và chống đỡ. Và thiếu mất "sự dịu dàng" trong giao tiếp. Anh hãy tự chữa chạy để giải thoát khỏi tất cả (giải thoát khỏi mình, thoát khỏi cái điều thật khủng khiếp: vô nhân trong bản thân mình, thần thánh trong bản thân mình), như con chó dùng lưỡi của chính nó để tự chữa các vết thương. Và khi Lomonosova đã đau lòng viết cho em về "tính vô độ" của anh và do sự thiện chí ngây thơ đã đánh đồng anh với Pushkin và với niềm đam mê thông thường của đàn ông khi lý giải cuộc hôn nhân mới của anh, em bèn bảo cô ta: đúng vậy, bạn thân mến ạ, may mắn thay, bởi lẽ đây là chiếc rơ-moóc cuối cùng của anh ấy.
Chỉ có giới mới làm anh trở thành con người chứ thậm chí không phải là tình phụ tử.
Bởi vậy, anh Boris ạ, hãy giữ lấy người đẹp của mình!
Tháng 3/1936
S. gửi P.
(...) Hiện nay mọi người đều yêu mến anh bởi lẽ không có Majakovski và Esenin, anh đã thế chân vào chỗ của kẻ khác. Bởi lẽ người ta cần phải yêu mến một ai đó chứ! Nhưng trong khi yêu mến, người ta lại ra sức phá hỏng, làm cho giống với hình mẫu của mình.
(...) Mur bảo em: "Mẹ ạ, trong cái nhỏ mẹ hoàn toàn không phải là người ích kỷ: mẹ hiến dâng hết thảy, thương xót tất cả mọi người, thế nhưng, trong cái l-ớ-n thì mẹ lại là một người ích kỷ khủng khiếp và hoàn toàn không phải là một tín đồ Cơ đốc giáo. Thậm chí con không rõ mẹ theo tôn giáo nào".
- Mur ạ, mẹ không phải là tín đồ Cơ đốc giáo mà là vua Ai Cập Pharaon, mẹ đem theo tất cả mọi thứ vào lăng mộ để sau hàng nghìn năm nữa hạt giống sẽ nảy mầm.
Em biết rằng bằng những việc làm của mình, em có nhiều quyền hơn là anh với những lời lẽ bình phẩm. Anh hãy cố sống đến chín mươi tuổi để thấy được điều đó. Bởi vì những lời lẽ về thơ chẳng giúp ích được mấy, cái mà người đời cầu đến là chính những câu thơ.
Lê Sơn dịch
Nguồn: http://hoinhavanvietnam.vn/News.Asp?Cat=12&SCat=&Id=1196
[1] Tên một bài thơ của Svetaeva (N.D).
[2] Sonntagskind (tiếng Đức) đứa bé sinh vào ngày chủ nhật (N.D.)
[3] Người tình của Majakovski (N.D)
Search
Access times
- Total visits58,324,257
PARTNER
Green Leaf Vietnam Trading Service Co., Ltd.
Is the leading passenger transport service company in Vietnam! In 2019, Green Leaf VN has more than 500 passenger cars from 4 seats to 50 seats, new life, reaching 150 thousand arrivals. The rate of successful and punctual pickup is 99.97%.
* Japanese customer care staff always create peace of mind and trust for customers ...
Most read
- Phạm Hổ - Thơ viết cho nhi đồng
- Người của giang hồ (5): Lâm Chín ngón
- Thuật quan sát người (4)
- Người của giang hồ (11): Hải bánh
- Người của giang hồ (8): Huỳnh Tỳ
- Thuật quan sát người (2)
- Hoàng hôn của những thần tượng
- Vài nét về tục Cúng Mụ, đầy tháng, thôi nôi
- Vài tư liệu về Tục thờ Thánh Mẫu
- Chùm thơ về Tây Nguyên

